Lê Quý Đôn – Nhà thơ, Tác giả, Nhà bác học lớn của Việt Nam thời Phong Kiến
Lê Quý Đôn (chữ
Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6
năm 1784), tên thuở nhỏ là Lê Danh
Phương, tự Doãn Hậu (允厚), hiệu
Quế Đường (桂堂), là vị quan thời Lê Trung
Hưng, cũng là nhà thơ và được mệnh
danh là "nhà bác học lớn của Việt
Nam trong thời phong kiến”.
Ở thế kỷ 18, các tri thức văn hóa,
khoa học của dân tộc được tích lũy hàng ngàn năm tới nay đã ở vào giai đoạn súc
tích, tiến đến trình độ phải hệ thống, phân loại. Thực tế khách quan này đòi hỏi
phải có những bộ óc bách khoa, Lê Quý Đôn với học vấn uyên bác của mình đã trở
thành người "tổng hợp" mọi
tri thức của thời đại.
Tác phẩm của Lê Quý Đôn thống kê có tới
40 bộ, bao gồm hàng trăm quyển, nhưng một số bị mối mọt ăn mất.
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ
(2 tháng 8 năm 1726) tại làng Diên
Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Ông là con trai cả của ông Lê Phú Thứ
(sau đổi là Lê Trọng Thứ), đỗ Tiến sĩ năm Bảo Thái thứ 2 (Giáp Thìn, 1721) và
làm quan trải đến chức Hình bộ Thượng thư, tước Nghĩa Phái hầu. Ông Lê Trọng Thứ
sinh năm 1694 và có hiệu là Trúc Am. Tổ tiên vốn là họ Lý ở huyện Đông Ngàn, trấn
Kinh Bắc. Vì tránh nạn nên gia đình ông dời về ở xã Vị Dương (nay là huyện Thái
Thụy, Thái Bình). Về sau gia đình ông lại đến ngụ cư ở xã Diên Hà, huyện Hưng
Hà cùng tỉnh. Mẹ Lê Quý Đôn tên Trương Thị Ích, là con gái thứ ba của Trương
Minh Lượng, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700), trải nhiều chức quan, tước Hoằng
Phái hầu.
Ba lần đỗ đầu
Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn là người ham học,
thông minh, có trí nhớ tốt, được người đương thời coi là "thần đồng". Năm lên 5 tuổi, ông đã
đọc được nhiều bài trong Kinh Thi. Năm 12 tuổi, ông đã học "khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách
gia chư tử".
Năm Kỷ Mùi, ông theo cha lên học ở kinh
đô Thăng Long. Năm 1743 (Quý Hợi, đời vua Lê Hiển Tông), ông dự thi Hương và đỗ
đầu (Giải nguyên) lúc 18 tuổi. Sau khi đỗ Giải nguyên năm 1743, vì không muốn
trùng tên với Nguyễn Danh Phương (1690 - 1751), một thủ lĩnh nông dân đang nổi
lên chống triều đình, nên ông đã đổi tên là Lê Quý Đôn. Sau đó, ông cưới
bà Lê Thị Trang ở phường Bích
Câu làm vợ. Bà là con gái thứ 7 của Lê Hữu Kiều, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1718).
Tuy đỗ đầu khoa thi Hương, nhưng thi
Hội mấy lần ông đều không đỗ. Ông ở nhà dạy học và viết sách trong khoảng 10
năm (1743-1752). Sách Đại Việt thông sử (còn gọi là "Lê triều thông sử")
được ông làm trong giai đoạn này (Kỷ Tỵ, 1749), ông lại dự thi Hội, và lần này
thì đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, ông đỗ luôn Bảng nhãn. Vì kỳ thi này không lấy
đỗ Trạng nguyên nên kể như cả ba lần thi ông đều đỗ đầu.
Làm quan
Sau khi đỗ đại khoa, năm Quý Dậu
(1753), Lê Quý Đôn được bổ làm Thị thư ở
Viện Hàn lâm, rồi sung làm Toản tu quốc sử vào mùa xuân năm Giáp Tuất (1754).
Năm Bính Tý (1756), ông được cử đi
thanh tra ở trấn Sơn Nam, phát giác "6, 7 viên quan ăn hối lộ". Tháng
5 năm đó, ông được biệt phái sang phủ Chúa coi việc quân sự (chức Tri Binh
phiên). Ba tháng sau, ông được cử đi hiệp đồng các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang,
Hưng Hóa... rồi đem quân đi đánh quân của Hoàng Công Chất.
Năm Đinh Sửu (1757), ông được thăng
làm Hàn lâm viện Thị giảng. Trong năm này ông viết Quần thư khảo biện.
Đi sứ nhà Thanh
Năm Kỷ Mão (1759), vua Lê Ý Tông mất,
triều đình cử ông làm Phó sứ, tước Dĩnh Thành bá, để cùng với Trần Huy Mật, Trịnh
Xuân Chú cầm đầu phái đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc) báo tang và nộp cống
(1760).
“Tháng 11 năm Kỷ Mão, Cảnh Hưng thứ 20 (1759) sai các ông Chánh sứ Trần
Huy Mật, Phó sứ Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Chú sang tuế cống nhà Thanh, thêm vào việc
báo tang vua [Lê] Ý Tông. ”
— Đại Việt sử ký tục biên
Trên đường sang Yên Kinh (nay là Bắc
Kinh), Lê Quý Đôn thấy các quan lại nhà Thanh có thói quen gọi đoàn sứ của Đại
Việt là "di quan, di mục" (quan lại mọi rợ), ông lên tiếng phản đối,
từ đấy họ mới gọi là "An Nam cống sứ". Việc đáng kể nữa trong chuyến
đi sứ này đó là ông đã được các quan lớn triều Thanh như Binh bộ Thượng thư
Lương Thi Chinh, Công bộ Thượng thư Quy Hữu Quang và nhiều nho thần khác tìm đến
thăm.
Đặc biệt, khi đến làm lễ ở điện Hồng
Lô, Lê Quý Đôn gặp đoàn sứ thần Triều Tiên do Hồng Khải Hi (洪启禧 - 홍계희) đứng đầu (còn có Triệu Vinh Tiến 趙榮進
và Lý Huy Trung 李徽中). Sau đó, ông đã làm thơ với họ và cho họ xem ba tác phẩm của
mình là Thánh mô hiền phạm lục, Quần thư khảo biện và Tiêu Tương bách vịnh. Tài
văn chương và ứng đáp của ông làm cho họ "phải tôn trọng", "phải
khen ngợi".
Một trong số các bài thơ Lê Quý Đôn
giao lưu với các sứ thần Triều Tiên:
“送朝鮮國使其一
異邦合志亦同方,
學術本從先素王。
完福共欣歌五善,
逸才偏愧乏三長。
側釐白錘交投贈,
端委洪疇覓表章。
信筆書黃終歉歉,
粲花清論過揄揚。
Tống Triều Tiên quốc sứ kỳ nhất
Dị bang hợp chí diệc đồng phương,
Học thuật bản tòng Tiên Tố Vương.
Hoàn phúc cộng hân ca ngũ thiện,
Dật tài thiên quý phạp tam trường.
Trắc ly, bạch trụy giao đầu tặng,
Đoan ủy, hồng trù mịch biểu chương.
Tín bút thư hoàng chung khiểm khiểm,
Xán hoa thanh luận quá du dương.
Tiễn sứ thần Triều Tiên kỳ 1
Khác bang nhưng hợp chí, cũng cùng một hướng,
Học thuật vốn cùng theo Tiên Tố Vương.
Cùng vui với cái phúc được trọn vẹn, ca lên bài ca ngũ thiện,
Riêng thẹn cho mình đem khoe tài năng mà lại không đủ tam trường.
Giấy trắc ly và giấy bạch trụy trao tặng lẫn nhau,
Phép đoan ủy và phép hồng trù tìm thấy ở biểu chương.
Thả sức viết văn sửa chữ, thật uyển chuyển,
Miệng tươi như hoa luận bàn, rõ ràng lại quá đề cao. ”
— Lê Quý Đôn
Biên soạn sách
Trở về nước (Nhâm Ngọ, 1762), ông được
thăng chức Thừa chỉ Viện Hàn lâm, rồi làm Học sĩ ở Bí thư các để duyệt kỹ sách
vở, Ngô Thì Sĩ giữ chức Chính tự. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục
viết rằng:
Bổ dụng Nguyễn Bá Lân và Lê Quý Đôn
sung làm học sĩ trong Bí thư các, để duyệt kỷ sách vở, chọn người có văn học là
bọn Ngô Thì Sĩ sung giữ chức chính tự trong các.
Năm Quý Mùi (1763), ông viết Bắc sứ
thông lục. Trong khoảng thời gian 10 năm (1763-1772), Lê Quý Đôn nhiều lần được
cử coi thi Hội.
Năm Giáp Thân (1764), ông dâng sớ xin
thiết lập pháp chế, vì thấy một số quan lại lúc bấy giờ "đã quá lạm dụng
quyền hành, giày xéo lên pháp luật", nhưng không được chúa nghe. Cũng
trong năm đó, ông được cử làm Đốc đồng xứ Kinh Bắc, rồi đổi làm Tham chính xứ Hải
Dương (Ất Dậu, 1765), song ông dâng sớ không nhận chức và xin về hưu.
Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục viết rằng:
Tháng 6, mùa hạ. Lê Quý Đôn, tham
chính Hải Dương bị bãi. Từ khi sang sứ nhà Thanh trở về nước, rồi bổ làm tham
chính Hải Dương, Quý Đôn tự giãi bày chín tội, nhưng thực ra là tự kể công lao
của mình.
Theo Phan Huy Chú, lời sớ đại khái rằng: "Tấm thân từng đi muôn dặm còn sống về được, lại gặp cảnh vợ chết, con
thơ phiêu bạt chỗ giang hồ, thần thực không thích làm quan nữa, xin cho về làng".
Được chấp thuận, ông trở về quê "đóng cửa, viết sách". Cũng theo
Phan Huy Chú, năm 1760, cha vợ ông
Đôn là Lê Hữu Kiều mất. Năm sau (1761), vợ ông Đôn là Lê Thị Trang (sinh năm
1733) cũng mất vì bệnh lao khi chưa đầy 30 tuổi, và đã có sáu con. Theo nhà
nghiên cứu Bùi Hạnh Cẩn, Lê Quý Đôn từ quan là vì thấy nhà chúa mỗi ngày thêm
sa đà vào các việc vui chơi, muốn bổ ông đi trấn cõi ngoài để không còn phải
nghe những lời can ngăn của ông, chứ không hẳn là vì nỗi buồn riêng về vợ con.
Đầu năm Đinh Hợi (1767), chúa Trịnh
Doanh qua đời, Trịnh Sâm lên nối ngôi. Nghe theo lời tâu của Nguyễn Bá Lân,
chúa cho triệu Lê Quý Đôn về triều, phong làm chức Thị thư, tham gia biên tập
quốc sử, kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám, lên vua Lê Hiển Tông đọc. Tháng 9 năm đó,
ông được cử làm Tán lý quân vụ trong đội quân của Nguyễn Phan (tước Phan Phái hầu)
đi dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Mật ở Thanh Hóa. Năm Mậu Tý (1768), ông làm xong
bộ Toàn Việt thi lục, dâng lên chúa Trịnh. Năm Kỷ Sửu (1769), ông dâng khải xin
lập đồn điền khẩn hoang ở Thanh Hóa.
Năm Canh Dần (1770), bàn đến công lao
đánh dẹp, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Hộ kiêm Thiêm đô Ngự sử. Mùa thu
năm ấy, ông và Đoàn Nguyễn Thục nhận lệnh đi khám duyệt hộ khẩu ở xứ Thanh Hóa.
Xong việc trở về, ông tâu xin tha bớt các thuế thổ sản, thủy sản cho các huyện
và thuế thân còn thiếu. Chúa Trịnh liền giao cho triều đình bàn và thi hành. Ít
lâu sau, ông được thăng Tả thị lang bộ Lại. Khi lãnh trọng trách này, ông có
tâu trình lên bốn điều, được chúa khen ngợi, đó là:
·
Sửa đổi đường lối bổ quan.
·
Sửa đổi chức vụ các quan.
·
Sửa đổi thuế khóa nhà nước.
·
Sửa đổi phong tục của dân.
Sách Khâm định Việt sử Thông giám
cương mục viết rằng:
"Trước kia, Quý Đôn làm phó đô ngự sử, thường dùng số bạc đút lót
trong khi xét kiện để dâng chúa Trịnh, bèn được thăng chức Hữu thị lang bộ Hộ.
Đến nay, nhân khi khám xét hạt Thanh Hoa trở về, lại dâng hơn một ngàn lạng bạc
đã ăn của đút, nên do chức Hữu thị lang bộ Hộ thăng lên chức này."
Năm Nhâm Thìn (1772), ông được cử đi
điều tra về tình hình thống khổ của nhân dân và những việc nhũng lạm của quan lại
ở Lạng Sơn.
Năm Quý Tỵ (1773) đại hạn, nhân đó
ông tâu trình 5 điều, đại lược nói: "Phương pháp của cổ nhân đem lại khí
hòa, dẹp tai biến, cốt lấy lễ mà cầu phúc của thần, lấy đức mà khoan sức
dân". Chúa nghe theo, bổ ông làm Bồi tụng (Phó Tể tướng), giữ việc dân
chính, kiêm quản cơ Hữu hùng, tước Dĩnh Thành hầu. Trong năm này, ông viết Vân
đài loại ngữ.
Tháng 5, năm 1773, chúa Trịnh Sâm hạ
lệnh cho Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Phương Đĩnh và Lê Quý Đôn làm lại sổ hộ tịch,
Quý Đôn kê cứu tra xét quá nghiêm khắc, nhân dân đều nghiến răng căm hờn, họ
làm thư nặc danh dán ở cửa phủ chúa Trịnh xin bãi bỏ Quý Đôn đi mà dùng Ngũ
Phúc, lời lẽ trong thư rất là khích thiết. Nhân đây, Trịnh Sâm thay đổi mệnh lệnh,
cho Ngũ Phúc cùng Quý Đôn đều giữ công việc đôn đốc làm sổ. Ngũ Phúc xin thi
hành theo điều lệ đời Cảnh Trị, đại để có nơi tăng, có nơi giảm, có nơi bình bổ
vẫn như cũ. Số dân đinh hơi kém với ngạch đinh năm Bảo Thái, dân cũng cho là
thuận tiện.
Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774), chúa Trịnh
Sâm thân chinh mang quân đánh Thuận Hóa, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Lưu thủ ở
Thăng Long.
Đầu năm Ất Mùi (1775), tướng Hoàng
Ngũ Phúc đánh chiếm được Thuận Hóa. Tháng 2 năm đó, chúa Trịnh trở về kinh, rồi
thăng ông làm Tả thị lang bộ Lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán.
Cũng trong năm đó xảy ra vụ Lê Quý Kiệt
(con Lê Quý Đôn) đổi quyển thi với Đinh Thì Trung. Bị phát giác, cả hai đều bị
tội. Vì là đại thần, Lê Quý Đôn được miễn nghị. Sách Khâm định Việt sử thông
giám cương mục (Chính Biên, quyển thứ 44, tờ 27 và tờ 28) chép:
"Quý Kiệt con Quý Đôn. Kỳ đệ tứ khoa thi [thi Hội] này, Quý Kiệt
cùng Đinh [Thì] Trung đổi quyển cho nhau để làm bài. Việc bị lộ, Đinh [Thì]
Trung phải tội lưu đi Yên Quảng, Quý Kiệt phải trở về làm dân. Đinh [Thì] Trung
nhân phát giác bức thư riêng của Quý Kiệt và cáo tố là do Quý Đôn chủ sự. Trịnh
Sâm lấy cớ Quý Đôn là bậc đại thần, bỏ đi không xét, mà luận thêm tội Quý Kiệt,
bắt giam cấm ở ngục ở cửa Đông".
Năm Bính Thân (1776), chúa Trịnh Sâm
đặt ty trấn phủ ở Thuận Hóa. Lê Quý Đôn được cử làm Hiệp trấn Tham tán quân cơ,
để cùng với Đốc suất kiêm Trấn phủ Bùi Thế Đạt tìm cách chống lại quân Tây Sơn.
Tại đây, ông soạn bộ Phủ biên tạp lục. Ít lâu sau, ông được triệu về làm Thị
lang bộ Hộ kiêm chức Đô ngự sử. Năm Mậu Tuất (1778), ông được cử giữ chức Hành
tham tụng, nhưng ông từ chối và xin đổi sang võ ban. Chúa Trịnh chấp thuận, cho
ông làm Tả hiệu điểm, quyền Phủ sự (quyền như Tể tướng, tạm coi việc phủ chúa),
tước Nghĩa Phái hầu. Tháng 4 năm đó, Lê Thế Toại dâng bài khải công kích Lê Quý
Đôn. Năm sau (1779), ông lại bị Hoàng Văn Đồng tố cáo, nên bị giáng chức. Tháng
7, năm 1779, thổ tù Hoàng Văn Đồng làm phản, triều đình sai Nguyễn Lệ, Nguyễn
Phan đi đánh, Văn Đồng xin hàng. Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục
chép rằng:
"Văn Đồng cáo tố rõ tình trạng sách nhiễu của Quý Đôn và Xuân Hán. Lệ
đem việc này tâu về triều, bọn Quý Đôn đều can tội, phải giáng chức".
Năm Tân Sửu (1781), ông lại được giữ
chức Tổng tài Quốc sử quán.
Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), chúa Trịnh
Sâm qua đời, Trịnh Cán được nối ngôi chúa. Chỉ vài tháng sau, quân tam phủ nổi
loạn giết chết Quận Huy (Hoàng Đình Bảo), phế bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ (vợ
chúa Trịnh Sâm, mẹ Trịnh Cán), lập Trịnh Khải làm chúa. Nhớ lại hiềm riêng,
Nguyễn Khản nói với chúa Trịnh Khải giáng chức Lê Quý Đôn.
Đầu năm Quý Mão (1783), ông nhận lệnh
đi làm Hiệp trấn xứ Nghệ An. Ít lâu sau, ông được triệu về triều làm Thượng thư
bộ Công.
Qua đời
Trong bối cảnh kiêu binh gây rối, triều
chính rối ren, nhân dân đói khổ,... Lê Quý Đôn lâm bệnh nặng. Sau đó, ông xin về
quê mẹ là làng Nguyễn Xá (huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) để chữa trị, nhưng không
khỏi. Ông mất ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 45 (tức 11
tháng 6 năm 1784), lúc 58 tuổi.
Thương tiếc, chúa Trịnh Tông (tức Trịnh
Khải) đã đề nghị với vua Lê Hiển Tông cho bãi triều ba ngày, cử Bùi Huy Bích
làm chủ lễ tang, đồng thời cho truy tặng Lê Quý Đôn hàm Công bộ Thượng thư. Đến
khi vua Lê Chiêu Thống nắm quyền chính, ông được gia tặng tước Dĩnh quận công.
Con cái
Ông có bốn con trai: Lê Quý Kiệt, Lê
Quý Châu, Lê Quý Tá và Lê Quý Nghị.
Tác phẩm
Theo GS. Dương Quảng Hàm, Lê Quý Đôn thật là một nhà bác học ở đời Lê mạt:
một tay ông đã biên tập, trứ thuật rất nhiều sách. Tuy tác phẩm của ông đã thất
lạc ít nhiều nhưng những bộ còn lưu lại cũng là một kho tài liệu để khảo cứu về
lịch sử, địa dư và văn hóa của nước Việt... Có thể chia các tác phẩm chữ Hán của
ông ra làm năm loại như sau:
1. Các sách bàn giảng về kinh, truyện
·
Dịch kinh phu thuyết (Lời bàn nông nổi
về Kinh Dịch), gồm 6 quyển.
·
Thư kinh diễn nghĩa (Giảng nghĩa Kinh
Thư), gồm 3 quyển, đã được khắc in, có tựa của tác giả đề năm 1772.
·
Xuân thu lược luận (Bàn tóm lược về
Kinh Xuân Thu).
2. Các sách khảo cứu về cổ thư
·
Quần thư khảo biện (Xét bàn các
sách), gồm 4 quyển, đã khắc in, có tựa của tác giả (đề năm 1757), của Chu Bội
Liên (người nhà Thanh) và của Hồng Hải Hi (sứ Triều Tiên đề năm 1761).
·
Thánh mô hiền phạm lục (Chép về mẫu mực
của các bậc thánh hiền), gồm 12 quyển, có tựa của Chu Bội Liên và Hồng Khải Hi
đề năm 1761.
·
Vân Đài loại ngữ (Lời nói, chia ra từng
loại, ở nơi đọc sách), gồm 4 quyển, viết năm 1773. Sách chia làm 9 mục, mỗi mục
lại chia làm nhiều điều. Trong mỗi mục, tác giả trích dẫn các sách Trung Hoa (cổ
thư, ngoại thư) nhiều quyển hiếm có, rồi lấy ý riêng của mình mà bàn. Xem sách
này thì biết tác giả đã xem rộng đọc nhiều.
3. Các sách sưu tập thi văn
·
Toàn Việt thi lục (Chép đủ thơ nước
Việt), gồm 20 quyển (theo Phan Huy Chú), nhưng hiện còn 15 quyển. Sách do ông
phụng chỉ biên tập, dâng lên vua Lê Hiển Tông xem năm 1768. Trong sách sưu tập
thơ của các thi gia Việt Nam từ đời Lý đến đời Hậu Lê... Đây là một quyển sách
quý để khảo cứu về tiểu sử và tác phẩm của các thi gia.
·
Hoàng Việt văn hải (Bể văn ở nước Việt
của nhà vua), là sách sưu tập các bài văn hay.
4. Các sách khảo về sử ký địa lý
·
Đại Việt thông sử (còn gọi là
"Lê triều thông sử"), gồm 30 quyển (theo Phan Huy Chú), viết năm
1749. Đây là bộ sử được viết theo thể kỷ truyện (chỉ có phần Bản kỷ là chép
theo lối biên niên) chép từ thời vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) đến vua Lê Cung Hoàng
(theo Phàm lệ của tác giả). Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn truyền lại mấy phần là:
·
Đế kỷ (2 quyển), chép từ năm Lê Lợi
khởi nghĩa (1418) đến năm ông mất (1433).
·
Nghệ văn chí (1 quyển), chép về sách
vở văn chương.
·
Liệt truyện (11 quyển), chép về các Hậu
phi, Hoàng tử, Danh thần (đời vua Lê Thái Tổ) và Nghịch thần (từ cuối đời nhà
Trần đến nhà Mạc).
·
Đại Việt sử ký tục biên (Nguyễn Hoàn,
Lê Quý Đôn, Vũ Miên hợp soạn).
·
Bắc sứ thông lục (Chép đủ việc khi đi
sứ sang Trung Quốc), 4 quyển, làm năm 1763. Trong sách ghi chép các công văn,
thư từ, núi sông, đường sá, chuyện trò, đối ứng trong khi đi sứ (1760-1762).
·
Phủ biên tạp lục (chép lẫn lộn về
chính trị cõi biên thùy), gồm 6 quyển, làm khi tác giả được cử làm Hiệp trấn
Tham tán quân cơ ở phủ Thuận Hóa (1776). Trong sách biên chép khá tường tận xã
hội xứ Đàng Trong (nhất là xứ Thuận Hóa và xứ Quảng Nam) ở thế kỷ 18.
·
Kiến văn tiểu lục (Chép vặt những điều
thấy nghe), gồm 12 quyển, có tựa của tác giả đề năm 1777. Đây là tập bút ký nói
về lịch sử và văn hóa Việt Nam từ đời Trần đến đời Lê. Trong sách, tác giả đã đề
cập tới nhiều lĩnh vực thuộc chế độ các vương triều Lý, Trần, từ thành quách
núi sông, đường sá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật, mỏ đồng, mỏ bạc và
cách khai thác cho tới các lĩnh vực thơ văn, sách vở...
·
Âm chất văn chú, gồm 2 quyển, đã khắc
in, chép các bài huấn chú của các nhà ở Trung Quốc, có kèm theo lời đính chính
của tác giả.
·
Lịch đại danh thần ngôn hành lục, gồm
2 quyển, chép công việc của các danh thần các triều.
5. Thơ văn
·
Liên châu thi tập, gồm 4 quyển, chép
thơ của Lê Quý Đôn cùng các thi gia khác, và những bài trả lời của các thi sĩ
nhà Thanh và Cao Ly làm khi ông đi sứ sang Trung Quốc.
·
Quế Đường thi tập (Tập thơ Quế Đường),
gồm 4 quyển
·
Quế Đường văn tập (tập văn Quế Đường),
gồm 3 quyển.
Về văn Nôm, hiện nay chỉ còn:
·
Bài thơ thất ngôn bát cú "Rắn đầu
biếng học".
·
Bài kinh nghĩa: "Vãng chi nhữ
gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử" (Mày về nhà chồng phải kính răn, chớ
trái ý chồng).
·
Bài văn sách hỏi về câu "Lấy chồng
cho đáng tấm chồng, bõ công tô điểm má hồng răn đen".
·
Bài kinh nghĩa: "Mẹ ơi con muốn
lấy chồng".
·
Bài "khải" viết bằng văn
xuôi chép trong Bắc sứ thông lục.
Tuy nhiên trừ bài "khải"
ra, theo PGS. Nguyễn Thạch Giang, các bài Nôm còn lại đều không chắc là của
ông.
Nhận xét
Lê Quý Đôn là một "nhà bác học
ham đọc, ham biết và ham viết", là "một nhà bác học có kiến thức hết
sức uyên bác và đa dạng". Điều đó đã được nhà sử học Phan Huy Chú nói đến
từ những năm đầu của thế kỷ 19, trích:
"Ông có tư chất khác đời, thông minh hơn người mà (vẫn) giữ tính nết
thuần hậu, lại chăm học không biết mỏi. Tuy đỗ đạt vinh hiển, tay vẫn không rời
quyển sách. Bình sinh (ông) làm sách rất nhiều. Bàn về kinh sử thì sâu sắc, rộng
rãi, mà nói về điển cố thì đầy đủ rõ ràng. Cái sở trường của ông vượt hơn cả, nổi
tiếng trên đời. Văn thơ ông làm ra gọi là Quế đường tập có mấy quyển"
(trong "Nhân vật chí").
"Ông là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ
trong sáng. Lời văn hồn nhiên..., không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như
sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia"
(trong "Văn tịch chí").
Xét góc cạnh khác, theo Giáo sư Văn
Tân thuộc Viện Sử học (Việt Nam), Lê Quý Đôn còn là:
·
Một nhà trí thức muốn có những cải
cách trong xã hội Việt Nam.
·
Một nhà chính trị quan tâm đến nhân
dân, gần gũi nhân dân, và hiểu những mong muốn của nhân dân.
·
Một nhà trí thức có tư tưởng tự tôn
và tự hào dân tộc.
Tuy nhiên, là một nho sĩ trung thành
với họ Trịnh, và ý hệ thức của Lê Quý Đôn là ý thức hệ của giai cấp phong kiến
hồi thế kỷ 18, nên trong đời ông, ông đã từng đi đánh dẹp các đội quân nổi dậy
chống lại triều đình Lê-Trịnh.
Giai thoại văn học
Có một số giai thoại kể về Lê Quý
Đôn, đáng chú ý có chuyện Rắn đầu biếng học:
Người ta kể rằng, một hôm, Tiến sĩ Vũ
Công Trấn đến thăm Tiến sĩ Lê Phú Thứ là người bạn cùng đỗ Tiến sĩ khoa Giáp
Thìn 1724 (sau đổi là Lê Trọng Thứ). Nghe con bạn là Lê Quý Đôn còn trẻ mà đã
hay chữ nên ông Trấn lấy đầu đề "Rắn đầu biếng học" để thử tài. Ít
phút sau, Lê Quý Đôn đã làm xong bài thơ dưới đây:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn lưng cam chịu vết roi da.
Từ nay Trâu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!
Bài thơ đúng vần, đúng luật, rất hợp đầu đề, mà ý tứ lại cao kỳ. Đặc biệt,
mỗi câu có tên một loài "rắn".
Các công trình gắn liền với tên tuổi của Lê Quý Đôn
Tên Lê Quý Đôn được dùng để đặt
tên cho nhiều trường học, nhiều đường phố ở khắp nước Việt Nam như:
·
Trường Đại học Kỹ thuật Lê Quý Đôn ở
Hà Nội
·
Trường Trung học phổ thông Lê Quý
Đôn, Thành phố Hồ Chí Minh
·
Trường THPT Lê Quý Đốn − TP Cẩm Phả
Quảng Ninh
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Điện
Biên
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Lai
Châu
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Quảng
Trị
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Đà Nẵng
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Bình
Định
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Khánh
Hòa
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Ninh
Thuận
·
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - Bà Rịa-Vũng
Tàu
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Hải Phòng
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Tp Tam Kỳ,
Quảng Nam
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Tĩnh
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Thái Bình
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Hòa Bình
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Tp Biên Hòa,
Đồng Nai
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - quận Đống
Đa, Hà Nội
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - quận Hà
Đông, Hà Nội
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - quận Cầu Giấy,
Hà Nội
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - Tp Vị Thanh,
Hậu Giang
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Tx Ngã Bảy,
Hậu Giang
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Long An
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Đắk Nông
·
Trường THPT Lê Quý Đôn - Bắc Ninh
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - Quận 3,
Thành phố Hồ Chí Minh
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - Tp Bắc
Giang, Bắc Giang
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - Hải Dương
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - Tp Sóc
Trăng, Sóc Trăng
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - Lào Cai
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - huyện Ý Yên,
Nam Định
·
Trường THCS Lê Quý Đôn - huyện Mộc
Châu, Sơn La
·
Trường Tiểu học Lê Quý Đôn, Tp Mỹ
Tho, Tiền Giang
·
Phố Lê Quý Đôn ở Tp Uông Bí
·
Phố Lê Quý Đôn ở Tp Hạ Long
·
Phố Lê Quý Đôn ở Tx Quảng Yên
·
Phố Lê Quý Đôn, phường Bạch Đằng, quận
Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
·
Phố Lê Quý Đôn, quận 3, thành phố Hồ
Chí Minh.
·
Phố Lê Quý Đôn, phường Trần Lãm,
thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
Nguồn WIKIPEDIA