28 tháng 11 2024
William Blake - là nhà thơ, họa sĩ Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ XVIII
William Blake (28 tháng 11 năm 1757 – 12 tháng 8 năm 1827) – là nhà thơ, họa sĩ Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ XVIII. Thơ ca của William Blake là một hiện tượng, chuyển từ thơ ca thế kỉ Ánh sáng sang thơ ca lãng mạn của John Keats, Percy Bysshe Shelley. Năm 1957 Hội đồng Hòa bình Thế giới kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông. Năm 2002 đài BBC bầu chọn 100 người Anh vĩ đại nhất mọi thời đại, William Blake được bầu ở vị trí 38.
(*) Tiểu sử
William Blake sinh ở Broad Street, Golden Square, London, là con trai của một nhà buôn hàng vải. Lên 10 tuổi bắt đầu học vẽ, năm 1778 vào học Royal Academy ở Old Somerset House. Năm 1780 công bố bức tranh đầu tiên. Năm 1783 bạn bè bỏ tiền in cho cuốn Poetical Sketches (Những phác họa thơ ca), năm 1784 cưới Catherine Boucher và mở cửa hàng bán tranh. Đến năm 30 tuổi William Bake chỉ được một số ít người biết đến nhưng bắt đầu nổi tiếng sau khi minh hoạ cho cuốn Night Thoughts (Những suy ngẫm về đêm). Năm 1818 Blake làm quen và kết bạn với họa sĩ trẻ John Linnell, người gợi ý và tài trợ cho Blake vẽ minh hoạ cuốn Job của Kinh Thánh. Sau đó, cũng với sự giúp đỡ của John Linnell, Blake vẽ những bức tranh minh hoạ cho phần Inferno (Địa ngục) của Dante.
Về thơ ca, William Blake cũng là một trong những nhà thơ hàng đầu. Thơ của Blake bao gồm thơ trữ tình và thơ triết học. Năm 1789 ông in cuốn Songs of Innocence (Những khúc hát ngây thơ), gồm những bài thơ và hình minh hoạ. Năm 1794 Songs of Innocence in cùng Songs of Experience (Những khúc ca từng trải). Blake đón chào Cách mạng Pháp bằng trường ca The French Revolution, 1791.
Từ sau năm 1790, Blake xuất bản một loạt sách minh hoạ, gồm The Marriage of Heaven and Hell (Đám cưới của Thiên đường và Địa ngục); Proverbs of Hell (Cách ngôn của Địa ngục); The First Book of Urizen (Cuốn sách đầu của Urizen); America, a Prophecy (Nước Mỹ và tiên tri); The Book of Ahania (Sách Ahania); The Song of Los (Bài ca của Los); The Book of Los (Sách của Los); Europe (Châu Âu); Vala, a Dream of Nine Nights (Vala, giấc mộng của chín đêm) Jerusalem (Jerusalem); The Everlasting Gospel (Sách Phúc âm muôn thuở); Milton: a Poems (Milton: Thơ)…
William Blake mất năm 1827 tại London.
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm - Đáng tin cậy!
///---
27 tháng 11 2024
Anders Celsius - Nhà thiên văn học người Thụy Điển (1701–1744)
Anders Celsius - Nhà thiên văn học người Thụy Điển (1701–1744)
Anders Celsius (27 tháng 11 năm 1701 - 25 tháng 4 năm 1744) là một nhà thiên văn học người Thụy Điển. Ông là giáo sư thiên văn học tại Đại học Uppsala (1730-1744), nhưng đi du lịch (1732-1735) thăm đài quan sát đáng chú ý tại Đức, Italy và Pháp. Ông thành lập Đài quan sát thiên văn học Uppsala vào năm 1741, và năm 1742 ông đề nghị các nhiệt độ quy mô mà lấy tên của ông, Celsius. Quy mô này sau đó đảo ngược vào năm 1745 bởi Carl Linnaeus, một năm sau khi Celsius chết.
(*) Thông tin Cá nhân
- Sinh: 27 tháng 11 năm 1701; Uppsala, Thụy Điển
- Mất: 25 tháng 4 năm 1744 (42 tuổi); Uppsala, Thụy Điển
- Quốc tịch: Thụy Điển
- Trường lớp: Đại học Uppsala
- Nổi tiếng vì: Celsius (Đơn vị đo lường nhiệt độ)
- Ngành: Thiên văn học, Khoa học
(*) Tiểu sử
- Tuổi trẻ
Anders Celsius được sinh ra tại Uppsala, Thụy Điển vào ngày 27 Tháng 11 năm 1701. Gia đình ông có nguồn gốc từ Ovanåker, tỉnh Hälsingland. Tên gia đình là một phiên bản tiếng Latin của tên nhà của 1 mục sư (Hōgen). Anders đã được trở thành một tín đồ của phái Luther.
Là con trai của một giáo sư thiên văn học, Nils Celsius, và cháu trai của nhà toán học Magnus Celsius và nhà thiên văn học Anders Spole, Celsius đã chọn một nghề nghiệp trong khoa học. Ông đã tỏ ra là một nhà toán học tài năng từ rất sớm. Anders Celsius học tại Đại học Uppsala, nơi cha của ông là một giáo viên, và năm 1730 ông cũng đã trở thành một giáo sư thiên văn học ở đó.
- Hướng nghiệp
Năm 1730, ông xuất bản Nova Methodus distantiam Solis một determinandi terra (Phương pháp mới Xác định khoảng cách từ mặt trời đến Trái Đất). Nghiên cứu của ông cũng tham gia nghiên cứu về các hiện tượng cực quang, mà ông thực hiện với trợ lý của ông Olof Hiorter, và ông là người đầu tiên đề xuất một kết nối giữa các bắc cực quang và những thay đổi trong từ trường của Trái Đất. Ông đã quan sát các biến thể của kim la bàn và thấy rằng chung lớn hơn đường cong tương quan với các hoạt động cực quang mạnh hơn. Tại Nuremberg năm 1733, ông xuất bản một bộ sưu tập của 316 quan sát cực quang borealis của mình và những người khác trong giai đoạn 1716-1732.
Celsius đi du lịch thường xuyên trong các thập niên 1730, đầu năm, bao gồm Đức, Ý, và Pháp, khi ông viếng thăm hầu hết các đài quan sát châu Âu lớn. Ở Paris, ông ủng hộ việc đo của một cung của các kinh tuyến tại Lapland. Năm 1736, ông tham gia các đoàn thám hiểm tổ chức cho mục đích đó của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, do nhà toán học người Pháp Pierre Louis Maupertuis (1698-1759) để đo lường mức độ của vĩ độ. Mục đích của chuyến thám hiểm này đã được để đo chiều dài của một độ dọc theo kinh tuyến một, gần các cực, và so sánh kết quả với một đoàn thám hiểm tương tự như Peru, hôm nay tại Ecuador, gần đường xích đạo. Các cuộc thám hiểm xác nhận Isaac Newton của niềm tin rằng hình dạng của Trái Đất là một hình ellipsoid dẹt ở hai cực.
Năm 1738, ông xuất bản De observationibus pro figura telluris determinanda (Quan sát về Xác định hình dạng của Trái Đất). Sự tham gia vào các cuộc thám hiểm Lapland cua Celsius đã cho anh ta được tôn trọng nhiều ở Thụy Điển với chính phủ và các đồng nghiệp của mình, và đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo sự quan tâm từ các nhà chức trách Thụy Điển đóng góp các nguồn lực cần thiết để xây dựng một đài quan sát mới hiện đại tại Uppsala. Ông đã thành công trong yêu cầu, và Celsius thành lập Đài quan sát thiên văn học Uppsala vào năm 1741. Dài quan sát này được trang bị các dụng cụ mua trong chuyến đi dài của mình ở nước ngoài, bao gồm các công nghệ hiện đại nhất của thời kỳ công cụ".
Trong thiên văn học, Celsius bắt đầu một loạt các quan sát bằng cách sử dụng các tấm thủy tinh màu để ghi lại độ lớn (một thước đo độ sáng) của các ngôi sao nhất định. Đây là nỗ lực đầu tiên để đo cường độ của ánh sáng sao với một công cụ khác hơn so với mắt người. Ông đã quan sát nhật thực và các đối tượng thiên văn khác nhau và danh mục xuất bản của xác định độ lớn một cách cẩn thận cho khoảng 300 ngôi sao bằng cách sử dụng hệ thống riêng của trắc quang của mình (có nghĩa là lỗi = 0,4).
Celsius là người đầu tiên thực hiện và xuất bản các thí nghiệm nhằm định nghĩa của một quốc tế nhiệt độ quy mô trên cơ sở khoa học. Trong tờ giấy "quan sát của hai độ liên tục trên nhiệt kế" của ông, ông báo cáo thí nghiệm để kiểm tra xem các điểm đông là độc lập của vĩ độ (và áp suất không khí). Ông xác định sự phụ thuộc của sôi nước với áp suất khí quyển đã được chính xác ngay cả theo tiêu chuẩn hiện đại. Ông cũng đã đưa ra một quy tắc để xác định điểm sôi nếu lệch áp suất khí quyển từ một áp lực tiêu chuẩn nhất định. Ông đề xuất quy mô nhiệt độ Celsius trong một bài báo để các Hội Khoa học Hoàng gia tại Uppsala, Thụy Điển lâu đời nhất khoa học xã hội, thành lập năm 1710. Nhiệt kế của ông đã được hiệu chỉnh với giá trị là 100° cho điểm đông của nước và 0° cho các điểm sôi. Năm 1745, một năm sau cái chết của ông, quy mô đã được đảo ngược bởi Carl Linnaeus để tạo điều kiện thực tế đo nhiều hơn. Celsius ban đầu được gọi là quy mô Celsius của mình bắt nguồn từ tiếng Latin cho "trăm bước". Trong nhiều năm nó đã được chỉ đơn giản gọi là nhiệt kế của Thụy Điển.
Celsius tiến hành đo đạc địa lý nhiều bản đồ tổng hợp Thụy Điển, và là một trong những đầu tiên cần lưu ý rằng có rất nhiều Scandinavia đang dần tăng lên trên mực nước biển, một quá trình liên tục đã xảy ra từ sự tan chảy của băng từ mới nhất của kỷ băng hà. Tuy nhiên, ông sai khi đặt ra quan điểm cho rằng nước đã bốc hơi.
Năm 1725 ông trở thành thư ký của Hiệp hội Khoa học Hoàng gia tại Uppsala, và làm việc tại đây cho đến khi ông qua đời vì bệnh lao năm 1744. Ông ủng hộ sự hình thành của Hoàng gia Thụy Điển, Viện khoa học tại Stockholm năm 1739 của Linnaeus và năm người khác, và được bầu làm thành viên tại cuộc họp đầu tiên của học viện này. Thực tế, tên học viện đã được đề xuất là Celsius.
Celsius được chôn cất tại Giáo hội Uppsala tại Gamla Uppsala bên cạnh ông nội của ông.
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm - Đáng tin cậy!
///---
26 tháng 11 2024
John Harvard - Giáo sĩ - Mục sư - Nhà từ thiện, Đại học Harvard được đặt theo tên ông
John Harvard - Giáo sĩ - Mục sư - Nhà từ thiện, Đại học Harvard được đặt theo tên ông
John Harvard (26 tháng 11 năm 1607 – 14 tháng 9 năm 1638) là mục sư người Anh sinh sống ở Mỹ, trước khi qua đời ông để di chúc hiến tặng tài sản cho "trường học hoặc trường đại học" mới được thành lập tại Khu Định cư Massachusetts Bay.
(*) Thông tin Cá nhân
- Sinh: 26 tháng 11 năm 1607; Southwark, Anh
- Mất: 14 tháng 9 năm 1638 (30 tuổi); Charlestown, Massachusetts
- Trường lớp: Đại học Cambridge
- Nghề nghiệp: Mục sư
- Nổi tiếng vì: Nhà từ thiện; Đại học Harvard được đặt theo tên ông
(*) Cuộc đời
Harvard chào đời và lớn lên ở Southwark, Anh Quốc, là con thứ tư trong gia đình có chín người con của Robert Harvard (1562 – 1625), một người hàng thịt và chủ quán rượu, với vợ là Katherin Rogers (1584 – 1635). Harvard chịu lễ báp têm tại nhà thờ St Saviour’s (nay là Đại Giáo đường Southwark), sau đến học tại Trường St Saviour’s.
Sau một trận dịch trong năm 1625, cả gia đình chỉ còn lại John, anh của cậu Thomas, và mẹ cậu. Katherine mất năm 1635, hai năm sau Thomas cũng qua đời.
Nhờ tài sản của chồng để lại, Katherine gởi con trai đến Emmanuel College thuộc Đại học Cambridge, tại đây Harvard lấy bằng Cử nhân năm 1632, rồi Thạc sĩ năm 1635, sau đó được phong chức mục sư. Năm 1636 ông kết hôn với Ann Sadler (1614 – 1655).
Năm 1637, Harvard và vợ di cư đến vùng New England, rồi định cư ở Charlestown. Ông trở thành phụ tá cho quản nhiệm nhà thờ của thị trấn. Harvard qua đời ngày 14 tháng 9 năm 1638, ông được an táng tại Charlestown.
(*) Hiến tặng cho Trường Harvard
Hai năm trước khi Harvard mất, chính quyền Khu Định cư Massachusetts Bay – với ước muốn "hoàn thiện hệ thống đào tạo rồi để lại cho hậu thế vì e rằng trong giáo hội sẽ chỉ còn giới chức sắc thất học, khi những mục sư hiện nay của chúng ta yên nghỉ trong cát bụi" – dành 400 bảng Anh cho "trường học hoặc trường đại học" ở Newtowne.
Harvard - thừa hưởng một tài sản khá lớn từ cha, mẹ, và anh trai, ông không có con cái - trước khi qua đời đã dặn dò vợ hiến tặng 780 bảng Anh (một nửa tài sản của ông, phần còn lại dành cho người vợ) cùng thư viện có 320 đầu sách.
Cộng đồng vinh danh ông bằng quyết định "Trường Đại học xây dựng ở Cambridge sẽ được gọi là Đại học Harvard". Ngay trước khi Harvard từ trần, thị trấn Newtowne lấy tên mới là Cambridge theo tên viện đại học Anh Đại học Cambridge mà nhiều người đang sống trong khu định cư, trong đó có Harvard, từng theo học.
Để vinh danh Harvard, người ta đúc tượng và đặt tại Harvard Yard trong khuôn viên Đại học Harvard dù tác phẩm điêu khắc này trông không giống người thật. Năm 1986, ảnh của ông được in trên tem bưu điện. Cửa sổ kính của nhà nguyện Emmanuel College thuộc Đại học Cambridge cũng khắc hình Harvard.
Thư viện John Harvard ở Southwark, Luân Đôn, là một địa điểm vinh danh ông; tương tự là chiếc cầu Harvard nối Boston với Cambridge, Massachusetts.
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm - Đáng tin cậy!
///---
25 tháng 11 2024
Huỳnh Phú Sổ - Người sáng lập đạo Hòa Hảo (1920–1947)
Huỳnh Phú Sổ - Người sáng lập đạo Hòa Hảo (1920–1947)
Huỳnh Phú Sổ (1920 - 1947) là người sáng lập đạo Phật giáo Hòa Hảo. Theo các tài liệu của tôn giáo này, ông được các tín đồ gọi là "Đức Thầy", "Đức Huỳnh Giáo chủ" hay "Đức Tôn Sư".
(*) Thông tin Cá nhân
- Tên khai sinh: Huỳnh Phú Sổ
- Sinh: 15 tháng 1 năm 1920 (nhằm ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi); An Giang, Nam Kỳ
- Mất: 16 tháng 4, 1947 (27 tuổi)
- Nổi tiếng vì: Sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo
(*) Thiếu thời
Huỳnh Phú Sổ sinh ngày 15 tháng 1 năm 1920, nhằm ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang); con của ông Hương Cả (người đứng đầu trong làng) Huỳnh Công Bộ và bà Lê Thị Nhậm. Thuở nhỏ ông thông minh, học hết bằng sơ học yếu lược Pháp - Việt nhưng hay bị đau ốm nên đành bỏ dở việc học.
Từ thuở bé, Huỳnh Phú Sổ đã có căn tính của một người tu hành, ông không thích đàn địch, ca hát, cười giỡn như các bạn cùng trang lứa, lúc nào ông cũng trầm tư, tĩnh mặc, thích ở nơi thanh vắng, yên tĩnh. Mỗi khi được bàn đến chuyện cưới hỏi thì ông đều cự tuyệt và có ý lẩn tránh.
Bệnh tình của ông ngày càng trở nặng, được người nhà đưa đi chữa trị khắp nơi, gặp nhiều danh y trong vùng nhưng họ cũng đành chịu thua. Sau khi trở về từ một lần đi viếng cảnh núi Tà Lơn (Campuchia) và vùng Thất Sơn (An Giang) cùng thân phụ của ông, những chứng bệnh của ông dần thuyên giảm.
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão, tức ngày 4 tháng 7 năm 1939, Huỳnh Phú Sổ thoát nhiên tỏ ngộ và tuyên bố khai sinh đạo Phật giáo Hòa Hảo, khi ấy ông chỉ mới 19 tuổi.
(*) Khai đạo
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú Sổ đứng ra cử hành lễ "Đền linh Khứu Sơn trung thọ mạng" khai đạo, lấy tên là Phật giáo Hòa Hảo, đó vừa là tên quê hương ông vừa có ý nghĩa là "hiếu hòa" và "giao hảo", lại mang một hàm nghĩa là đạo Phật ở làng Hòa Hảo. Từ đó, ông đi chữa bệnh, tiên tri, thuyết pháp và sáng tác thơ văn, kệ giảng. Văn chương của ông bình dân nên dễ đi vào lòng người. Chỉ trong một thời gian ngắn số tín đồ và ảnh hưởng của ông càng ngày càng gia tăng và trở thành một phong trào tín ngưỡng mạnh mẽ khiến Thực dân Pháp lo ngại.
Ngày 18 tháng 8 năm 1940, Thực dân Pháp đưa Huỳnh Phú Sổ đi quản thúc tại Sa Đéc.
Ngày 23 tháng 5 năm 1940, Thực dân Pháp chuyển ông sang quản thúc ở làng Nhơn Nghĩa, tỉnh Cần Thơ nhưng cả hai nơi này đều được đông đảo quần chúng đến xin nghe thuyết pháp và quy y Phật giáo Hòa Hảo.
Vì vậy ngày 28 tháng 7 năm 1940, nhà cầm quyền Pháp đưa Huỳnh Phú Sổ vào bệnh viện Cần Thơ và sau đó chuyển lên nhà thương điên Chợ Quán tại Sài Gòn.
Tháng 6 năm 1941, Huỳnh Phú Sổ bị đưa đi quản thúc ở Bạc Liêu. Tại đây ông không được phép trị bệnh và thuyết pháp.
Tháng 10 năm 1942, trước tin tức người Pháp sẽ đưa Huỳnh Phú Sổ đi đày ở Ai Lao (Lào), các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và hiến binh Nhật đã giải cứu ông đem về Sài Gòn.
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945, Huỳnh Phú Sổ đi thuyết pháp và khuyến nông tại 107 địa điểm ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm - Đáng tin cậy!
///---
24 tháng 11 2024
Nhật Ngân - Nhạc sĩ Việt Nam
Nhật Ngân - Nhạc sĩ Việt Nam
Nhật Ngân (1942–2012) là một nhạc sĩ Việt Nam sáng tác từ trước năm 1975 lẫn sau này ở hải ngoại. Một số bút hiệu khác của ông là Trịnh Lâm Ngân (khi viết chung với Trần Trịnh), Ngân Khánh (tên của con gái của ông), Song An.
(*) Thông tin Cá nhân
- Tên khai sinh: Trần Nhật Ngân
- Ngày sinh: 24 tháng 11, 1942
- Nơi sinh: Hoàng Kim, Thanh Hóa, Liên bang Đông Dương
- Ngày mất: 21 tháng 1, 2012 (69 tuổi)
- Nơi mất: California, Hoa Kỳ
- Giới tính: nam
- Nghề nghiệp: Nhạc sĩ
- Bút danh: Nhật Ngân - Ngân Khánh - Song An
- Dòng nhạc: Nhạc vàng - Tình khúc 1954–1975 - Nhạc hải ngoại
- Hợp tác với: Trần Trịnh - Duy Khánh - Y Vũ - Mặc Thế Nhân - Đinh Việt Lang - Trầm Tử Thiêng
- Thành viên của: Trịnh Lâm Ngân - Phan Trần - Tinh Hoa
- Ca khúc nổi tiếng: Tôi đưa em sang sông - Xuân này con không về - Qua cơn mê
(*) Cuộc đời
Ông tên thật là Trần Nhật Ngân, sinh ngày 24 tháng 11 năm 1942, là con út trong gia đình có 6 anh chị em, cha mất sớm. Mặc dù nguyên quán ở Hoàng Kim, Thanh Hóa nhưng hầu hết cuộc đời ông sống tại Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn và sau này là ở Hoa Kỳ.
Đến tuổi trưởng thành, ông nhập ngũ Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Nhờ khả năng âm nhạc, ông được chuyển phục vụ trong Nha Chiến tranh Tâm lý. Ông lập gia đình năm 1969 và có 3 người con.
Nhật Ngân xuất hiện trong làng nhạc miền Nam Việt Nam vào thập niên 1960 với bản nhạc đầu tay Tôi đưa em sang sông (đồng tác giả Y Vũ). Tiếp sau đó, ông thành công với đề tài người lính với những ca khúc như Mùa xuân của mẹ, Xuân này con không về, Qua cơn mê và Một mai giã từ vũ khí (viết trong bối cảnh Hiệp định Paris kết thúc Chiến tranh Việt Nam). Trong sự nghiệp của mình, ông nhiều lần hợp tác với nhạc sĩ Trần Trịnh với nghệ danh chung là Trịnh Lâm Ngân.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Nhật Ngân bị chính quyền mới cấm hoạt động nhưng bài Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh? vẫn được phổ biến ở hải ngoại.
Năm 1982, ông vượt biên sang đến Thái Lan tị nạn rồi được ca sĩ Thanh Thúy bảo lãnh định cư ở Hoa Kỳ năm 1984. Tới năm 1990, ông bảo lãnh được vợ và các con qua Hoa Kỳ, nhưng chỉ sau 19 tháng đoàn tụ với gia đình thì phát hiện bị ung thư dạ dày. Sau khi giải phẫu, ông bình phục và bắt đầu sinh hoạt văn nghệ trở lại. Bài hát đầu tiên của ông tại hải ngoại là Hương dựa trên ý thơ của Nguyễn Long.
Năm 1987, ông làm giám khảo cuộc thi tuyển ca sĩ Tượng Vàng tổ chức tại San Jose, California, giám khảo cuộc tuyển lựa ca sĩ lần thứ 1 của Thúy Nga Paris, và khi đang làm giám khảo cho cuộc tuyển lựa ca sĩ cuối cùng của Asia thì ông bị bệnh nặng và qua đời.
Kể từ năm 1993, ông hỗ trợ Trung tâm Thúy Nga trong việc viết nhạc cảnh, ca khúc cho các chương trình của trung tâm này. Trung tâm Thúy Nga từng thực hiện Paris By Night 66 - Người Tình Và Quê Hương vinh danh ông, cùng với 2 nhạc sĩ Trần Trịnh và Ngô Thụy Miên.
Nam 2007, riêng trung tâm Thúy Nga ông còn xuất hiện với vai trò ban giám khảo:
• Paris By Night 86 - PBN Talent Show - Semi-Finals
• Paris By Night 87 - PBN Talent Show - Finals
Ông cũng hướng dẫn một vài ca sĩ trẻ mà tiêu biểu nhất trong đó là Băng Tâm, Ngọc Ngữ, Cát Lynh.
Ông mất ngày 21 tháng 1 năm 2012 tại California, Hoa Kỳ.
(*) Sáng tác
Nhạc của Nhật Ngân gồm 3 chủ đề khái quát lớn:
• Nhạc viết trước 1975 (bao gồm nhạc lính và nhạc trữ tình)
• Nhạc viết sau 1975 ở hải ngoại
• Nhạc ngoại lời Việt
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm - Đáng tin cậy
///---
23 tháng 11 2024
Võ Văn Kiệt - Chính trị gia người Việt Nam (1922–2008)
Võ Văn Kiệt - Chính trị gia người Việt Nam (1922–2008)
Võ Văn Kiệt (tên khai sinh: Phan Văn Hòa; 23 tháng 11 năm 1922 – 11 tháng 6 năm 2008), bí danh Sáu Dân, Chín Dũng, Chín Hòa, là nhà chính trị Việt Nam. Ông làm Thủ tướng Chính phủ thứ tư (trước kia là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 8 tháng 8 năm 1991 đến ngày 25 tháng 9 năm 1997. Ông được nhiều báo chí đánh giá là người đã đẩy mạnh công cuộc Đổi Mới và cải cách chính sách ở Việt Nam kể từ năm 1986, là "tổng công trình sư" nhiều dự án táo bạo của thời kỳ Đổi Mới.
(*) Thông tin Cá nhân
- Sinh: 23 tháng 11, 1922 - tỉnh Vĩnh Long, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương
- Mất: 11 tháng 6, 2008 (85 tuổi) - Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore
- Nơi an nghỉ: Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
- Nơi ở: Thành phố Hồ Chí Minh
- Dân tộc: Kinh
- Tôn giáo: Phật Giáo
- Đảng chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam
- Vợ: Trần Kim Anh (1932-1966) - Phan Lương Cầm (s.1943)
- Cha: Phan Văn Dựa
- Mẹ: Võ Thị Quế
- Con cái: Phan Chí Dũng (1951-1972) - Phan Hiếu Dân (s.1955) - Phan Thị Ánh Hồng (1958-1966) - Phan Chí Tâm (1966-1966)
(*) Thông tin Cơ bản
Ông Kiệt là người đóng vai trò động lực trong công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam khởi đầu từ giữa những năm 1980, đúng như Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon từng đánh giá "Võ Văn Kiệt đã mở đường cho sự chuyển mình của đất nước từ đói nghèo sang một thập kỷ tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng". Khoảng thời gian 5 năm sau Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) đến Đại hội VII (tháng 6 năm 1991) là thời gian diễn ra các cuộc cọ xát, đấu tranh ở những mức độ, cấp độ, địa bàn khác nhau giữa hai khuynh hướng trở về cơ chế cũ quan liêu bao cấp hay dứt khoát chia tay với nó. Nhiều cán bộ, hoặc vì lợi ích cá nhân, hoặc vì không đủ quyết tâm, năng lực không dám và không muốn đổi mới. Trước tình hình đó, ông Võ Văn Kiệt cùng nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp kiên trì, thể hiện quyết tâm đổi mới mạnh mẽ và chỉ rõ đổi mới phải bám sát vào điều kiện thực tiễn nhằm đáp ứng lợi ích của nhân dân, của đất nước.
Trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tháng 6 năm 1988 – tháng 8 năm 1991), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tháng 8 năm 1991 – tháng 10 năm 1992), Thủ tướng Chính phủ (tháng 10 năm 1992 – 1 tháng 2 năm 1997), ông Kiệt đã đề xuất và chỉ đạo xây dựng, triển khai nhiều chính sách có tính đột phá như: xóa bỏ chỉ tiêu pháp lệnh, trao quyền tự chủ kinh doanh cho xí nghiệp quốc doanh; thực hiện thương mại hóa tư liệu sản xuất, cho phép các doanh nghiệp lớn, cả Trung ương và địa phương, được trực tiếp xuất nhập khẩu, chấm dứt tình trạng hai giá; xóa bỏ chế độ thu mua nghĩa vụ áp đặt với nông dân, bãi bỏ ngăn sông cấm chợ, thực hiện tự do lưu thông hàng hóa trong cả nước, chuyển dần nền kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường.
(*) Tiểu sử
Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, sinh ngày 23 tháng 11 năm 1922 tại ấp Bình Phụng, một ấp nghèo thuộc xã Trung Lương, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long), là con út trong một gia đình có năm anh trai và hai chị gái. Mẹ ông nhận nuôi thêm một người con (vì vậy ông được gọi là Chín Hòa). Cha là Phan Văn Dựa, mẹ là Võ Thị Quế. Cả hai đều sinh ra ở ấp Bình Phụng. Gia đình ông cũng nghèo như số đông trong làng, từ đất ở, đất ruộng, đến trâu cày, đều phải đi thuê.
Trong xóm, có một ông chủ họ tên là Phan Văn Chi (Hai Chi) không con, không vợ. Ông Hai Chi phần thấy chị dâu mình vất vả, phần cũng lo nghĩ tới tuổi già, nên xin Chín Hòa về nuôi. Mỗi bữa, Chín Hòa khát sữa, ông Hai Chi lại cất công lòng vòng khắp xóm, ai cho thì bú, người dân quê gọi là "bú thép”.
Cũng do gia đình nghèo, Chín Hòa chưa bao giờ được đến trường một cách chính thức. Năm tám tuổi, ông được đi học theo kiểu "trường làng" trong xóm. Ông Hai Mẹo, một trong hai người thầy “dạy mùa" của ông kể: “Chín Hòa thông minh và ăn nói lễ độ lắm. Nhưng dạy được hai năm thì tôi cũng hết chữ, rồi thôi”.
Mẹ ông có tiếng là người phụ nữ nhân hậu, giàu đức hy sinh và nhạy cảm, tinh tế. Dù không sống cùng bà trong một mái nhà nhưng ông luôn dành cho mę niềm thương yêu, kính trọng lớn. Khi cần đặt bí danh để hoạt động, ông lấy họ Võ của mẹ và Võ Văn Kiệt được dùng như là tên chính thức của ông từ đó đến nay.
(*) Hoạt động cách mạng
Tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi trong phong trào Thanh niên phản đế (1938), ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11 năm 1939. Trong thời gian Khởi nghĩa Nam Kỳ ông là Huyện ủy viên, Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm. Sau Cách mạng Tháng Tám, khi quân đội Pháp tái chiếm Nam Kỳ, Võ Văn Kiệt là Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Từ năm 1946 đến năm 1954, ông là Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, sau đó là Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.
(*) Sự nghiệp Chính trị
+ Thời chiến
Võ Văn Kiệt là thành viên của phong trào độc lập Việt Minh, ông đã chiến đấu chống lại thực dân Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–54) ở miền Nam Việt Nam. Theo Hiệp định Genève, các lực lượng chính trị không bắt buộc phải tập kết ra miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử, và ông nằm trong số những người ở lại miền Nam, di chuyển giữa các căn cứ bí mật ở miền Đông Nam Bộ. Người vợ đầu tiên của ông, Trần Kim Anh, và hai người con của ông đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng tên lửa của lực lượng Hoa Kỳ vào năm 1966.
Sau Hiệp định Genève (1955), Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến cuối năm 1970, ông được giao trọng trách là Bí thư Khu ủy T.4, tức khu Sài Gòn – Gia Định. Ông bắt đầu được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương trong Ban Chấp hành Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam từ Đại hội III (1960) và là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam năm 1961, chỉ huy các lực lượng cộng sản tại Sài Gòn và các vùng lân cận. Từ năm 1973 đến năm 1975, ông được điều về làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Sau khi lực lượng Cách mạng kiểm soát Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông đã lãnh đạo việc tiếp quản thành phố và năm 1976 được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân (bí danh là Tỉnh trưởng) đồng thời là Phó Bí thư Thành ủy, cơ quan này đã được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tưởng nhớ vị lãnh tụ đã khuất.
+ Thời hậu chiến
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt được Trung ương Cục phân công giữ chức Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn. Từ năm 1976 ông làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông cũng đắc cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV (1976), ông được bầu làm Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 1982.
Từ tháng 4 năm 1982, Võ Văn Kiệt được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, Phó chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng.
Từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 22 tháng 6 năm 1988, ông được giao nhiệm vụ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng qua đời đột ngột.
Ngày 11 tháng 3 năm 1988, thay mặt Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo ký thông báo về giữ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phụ trách điều hành hoạt động Chính phủ) đối với ông Võ Văn Kiệt. Tháng 6 năm 1988, ông Kiệt và Đỗ Mười đựoc giới thiệu bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Sau đó khi đưa ra Quốc hội bỏ phiếu bầu chức danh Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Đỗ Mười trúng cử, do đó ông vẫn làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Từ năm 1987 đến năm 1991, ông làm Phó Thủ tướng kiêm Trưởng Ban Chỉ đạo Hướng dân sinh đẻ có kế hoạch, sau người tiền nhiệm là Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp.
+ Xé rào
Những năm sau 1975, Sài Gòn với khoảng 4 triệu dân lâm vào cảnh thiếu lương thực. Người dân thường xuyên phải ăn cơm độn khoai, sắn, củ mì. Nguyên nhân trước đó nhà nước cải tạo tư bản tư doanh ở miền Nam, độc quyền khâu bán buôn. Điều này khiến toàn bộ mạng lưới gồm các chủ chành, chủ vựa gạo ở miền Tây bị xóa bỏ, thay bằng các công ty mậu dịch quốc doanh. Tuy nhiên, giá mua của nhà nước khi đó "thấp như cho", nông dân miền Tây có gạo nhưng không chịu bán. Chính quyền có tiền cũng không được mua gạo theo giá thoả thuận vì dễ bị quy vào tội đi ngược chủ trương bao cấp.
Với vai trò Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông Võ Văn Kiệt khi đó đứng trước hai lựa chọn: nghiêm chỉnh chấp hành giá thu mua của nhà nước hoặc "phá rào" tìm cách mua gạo về cứu đói.
"Bộ Lương thực có trách nhiệm cung cấp gạo cho thành phố nhưng chưa bao giờ cung cấp đủ và kịp thời. Sở Lương thực thì không được phép mua với giá thoả thuận. Dân miền Tây có gạo nhưng không chịu bán giá nghĩa vụ cho nhà nước vì họ bị thiệt. Trong khi đó, dân thành phố có tiền và sẵn sàng mua với giá thoả thuận lại không được xuống mua", ông chỉ ra hàng loạt nghịch lý và đặt câu hỏi: "Tại sao chúng ta không ráp hai mối này lại? Đó là vấn đề mà tôi mời anh chị đến để hiến kế giải quyết". Để đảm bảo an toàn cho việc "xé rào", một tổ thu mua gạo ra đời, gồm cán bộ kế toán, ngân hàng, vận tải... do bà Ba Thi làm tổ trưởng, sau này nhiều người gọi đùa đây là "tổ buôn lậu gạo". Ông Võ Văn Kiệt đồng tình với phương án nói trên và đứng ra chịu trách nhiệm về chủ trương để các đơn vị thực hiện. Tổ hoạt động liên tục từ năm 1979 đến 1982, khi đời sống người dân Sài Gòn ổn định mới dừng.
Giai đoạn 1978-1979, Thành phố Hồ Chí Minh còn đối mặt với thiếu hụt nguồn nhập khẩu khiến đầu vào của toàn bộ nền sản xuất suy giảm, kéo theo khủng hoảng về hàng hoá, lao động. Ông Kiệt lại bàn với lãnh đạo thành phố tìm cách "xé rào" nhập khẩu một số nguyên liệu cần thiết phục vụ sản xuất.
Thành phố đưa ra sáng kiến sử dụng các thương nhân, chủ yếu là người Hoa, đứng ra thu gom mặt hàng có thể xuất khẩu để trao đổi trực tiếp với Hồng Kông, Singapore. Công thức "hàng đổi hàng" tiếp tục được vận dụng. Giá cả tính ra USD và trao đổi bằng hiện vật, Việt Nam lấy mực khô tôm khô, lạc, đỗ để đổi lấy sợi thuốc lá, sợi dệt, xăng dầu. Hàng hoá không giao nhận bằng phương pháp thông thường mà hai bên hẹn ngày giờ, gặp nhau tại phao số 0 ngoài khơi rồi trao hàng nên không có xuất nhập cảnh, bớt được khâu thủ tục.
(*) Vinh danh
Ngày 22 tháng 2 năm 2009, tên của ông được đặt cho một con đường dài 23,6 km chạy từ ngã tư Bình Long cắt Quốc lộ 1 trên đường Nguyễn Hoàng qua nhà máy lọc dầu Dung Quất ra cảng Dung Quất, Quảng Ngãi.
Ngày 29 tháng 4 năm 2011, Sở Giao thông Vận tải và Ủy ban nhân dân quận 1, TP Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ đặt tên đường Võ Văn Kiệt cho Đại lộ Đông – Tây, một trong những tuyến đường hiện đại và quan trọng trong hệ thống hạ tầng giao thông của Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại lộ Võ Văn Kiệt có tổng chiều dài hơn 13,42 km, kéo dài từ đoạn giao nhau giữa đường Hàm Nghi và đường Tôn Đức Thắng, thuộc bờ Tây sông Sài Gòn, quận 1 đến cầu vượt quốc lộ 1, huyện Bình Chánh.
Dự án đại lộ Đông – Tây là công trình trọng điểm của hệ thống giao thông TP Hồ Chí Minh có tổng chiều dài 21,89 km đi qua địa bàn 8 quận, huyện trên địa bàn thành phố bắt đầu từ nút giao Tân Kiên, huyện Bình Chánh đến nút giao Cát Lái, thành phố Thủ Đức, trong đó có một hầm vượt sông Sài Gòn dài 1.490 m. Dự án có tổng mức đầu tư 9.863 tỷ đồng.
Tại thành phố Cần Thơ, tuyến đường đẹp nối từ trung tâm (đường Mậu Thân) đến cảng hàng không quốc tế Cần Thơ cũng mang tên Võ Văn Kiệt. Đà Nẵng có đường mang tên ông nối đường Nguyễn Văn Linh với đường Võ Nguyên Giáp (Trường Sa cũ).
Tại Hà Nội, tên của ông được đặt tên cho đoạn đường nối từ cầu Thăng Long đến sân bay quốc tế Nội Bài, chạy trên địa bàn các huyện Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn (trước đây là trục đường Bắc Thăng Long – Nội Bài).
Các tên Võ Văn Kiệt hay Phan Văn Hòa còn được đặt tên cho các đường phố và trường học ở nhiều nơi khác tại Việt Nam.
Từ tháng 10 năm 2015, tại Phan Thiết, Bình Thuận có thêm công viên Võ Văn Kiệt với diện tích 4ha để phục vụ người dân đến vui chơi, tập thể dục mỗi ngày. Đặc biệt, vào mỗi dịp tối cuối tuần, lễ tết, công viên tấp nập du khách gần xa vào đây để tham gia các hoạt động ngoài trời.
Ngày 8 tháng 11 năm 2015, UBND tỉnh Trà Vinh long trọng tổ chức lễ công bố nghị quyết của HĐND tỉnh Trà Vinh về đặt tên ông cho đoạn đường với điểm đầu từ ngã ba Sóc Ruộng và điểm cuối đến quốc lộ 53.
Tại Đồng Tháp, tên ông được đặt cho đoạn đường từ thị trấn Thanh Bình (huyện Thanh Bình) đến xã Trường Xuân (huyện Tháp Mười). Đây được xem là tuyến đường đi xuyên Đồng Tháp Mười của tỉnh Đồng Tháp với chiều dài 40 km.
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm - Đáng tin cậy
///---
20 tháng 11 2024
Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 2025) Phó Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ (2009–2017)
Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 2025) Phó Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ (2009–2017)
Joseph Robinette Biden Jr. (/ˈbaɪdən/ BY-dən; sinh ngày 20 tháng 11 năm 1942), thường được biết tới với tên Joe Biden là một chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 46 và đương nhiệm của Hoa Kỳ. Là thành viên của Đảng Dân chủ, ông từng là phó tổng thống thứ 44 từ năm 2009 đến năm 2017 dưới thời Barack Obama và thượng nghị sĩ đại diện cho Delaware từ năm 1973 đến năm 2009. Ông dự kiến sẽ từ chức vào ngày 20 tháng 1 năm 2025 để nhường lại vị trí Tổng thống cho Donald Trump, Tổng thống mới đắc cử vào ngày 6 tháng 11 năm 2024.
(*) Tiểu sử
Sinh ra và lớn lên ở Scranton, Pennsylvania, Biden cùng gia đình chuyển đến Quận New Castle, Delaware vào năm 1953 khi ông 10 tuổi. Biden theo học tại Đại học Delaware trước khi lấy bằng luật tại Đại học Syracuse vào năm 1968. Ông được bầu vào Hội đồng Quận New Castle năm 1970 và trở thành thượng nghị sĩ trẻ thứ sáu trong lịch sử Hoa Kỳ khi ông được bầu vào Thượng viện Hoa Kỳ từ Delaware vào năm 1972, ở tuổi 29. Biden là thành viên lâu năm của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện và cuối cùng trở thành chủ tịch của ủy ban này. Ông còn là chủ tịch Ủy ban Tư pháp Thượng viện từ năm 1987 đến 1995, giải quyết các vấn đề về chính sách ma túy, phòng chống tội phạm và quyền tự do dân sự; dẫn đầu nỗ lực thông qua Đạo luật kiểm soát tội phạm bạo lực và thực thi pháp luật, Đạo luật chống bạo lực đối với phụ nữ; và từng giám sát sáu phiên điều trần phê chuẩn tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, bao gồm các phiên điều trần gây tranh cãi của Robert Bork và Clarence Thomas. Ông ra tranh cử tổng thống cho đảng Dân chủ vào năm 1988 và 2008 nhưng không thành công. Biden đã được bầu lại vào Thượng viện sáu lần và là thượng nghị sĩ tại vị lâu thứ tư vào thời điểm ông trở thành phó tổng thống sau khi cùng Obama giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, đánh bại John McCain và người đồng tranh cử Sarah Palin. Obama và Biden tiếp tục tái đắc cử vào năm 2012, đánh bại Mitt Romney và người đồng tranh cử Paul Ryan.
Trong tám năm làm phó tổng thống, Biden dựa vào kinh nghiệm lâu năm ở Thượng viện của mình và thường xuyên đại diện cho chính quyền trong các cuộc đàm phán với những đảng viên Cộng hòa trong quốc hội, bao gồm Đạo luật Kiểm soát Ngân sách 2011, nó đã giải quyết cuộc khủng hoảng trần nợ và Đạo luật Trợ giúp Người nộp thuế của Mỹ 2012 đã giải quyết "bờ vực tài chính" sắp xảy ra. Ông cũng giám sát chi tiêu cơ sở hạ tầng trong năm 2009 để chống lại cuộc Đại suy thoái. Về chính sách đối ngoại, Biden là cố vấn thân cận của tổng thống và đóng vai trò hàng đầu trong việc lên kế hoạch rút quân Mỹ khỏi Iraq vào năm 2011. Năm 2017, Obama trao tặng cho Biden Huân chương Tự do Tổng thống.
Biden và người đồng tranh cử Kamala Harris đã đánh bại tổng thống đương nhiệm Donald Trump và phó tổng thống Mike Pence trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020. Ông là tổng thống lớn tuổi nhất và là người đầu tiên có một nữ phó tổng thống. Biden đã đề xuất, vận động hành lang và ký ban hành Đạo luật Kế hoạch Giải cứu Hoa Kỳ 2021 nhằm giúp Hoa Kỳ phục hồi sau đại dịch COVID-19 và cuộc suy thoái đang diễn ra. Ông đề xuất Kế hoạch Việc làm Mỹ, nhiều khía cạnh của nó được đưa vào Đạo luật Việc làm và Cơ sở hạ tầng lưỡng đảng, đã được ký ban hành. Ông đã tiến cử Ketanji Brown Jackson vào Tòa án Tối cao. Biden cũng đề xuất mở rộng mạng lưới an sinh xã hội, bên cạnh dự luật về quyền biểu quyết, nhưng những nỗ lực đó, đã bị Quốc hội bác bỏ. Về chính sách đối ngoại, Biden đã giúp Hoa Kỳ tái gia nhập vào Thỏa thuận chung Paris về biến đổi khí hậu. Ông hoàn thành việc rút quân đội Mỹ khỏi Afghanistan, cùng lúc đó chính phủ Afghanistan sụp đổ và Taliban giành quyền kiểm soát đất nước. Ông đã phản ứng lại với cuộc tấn công của Nga vào Ukraina 2022 bằng việc áp đặt các biện pháp trừng phạt nhằm vào Nga, ủy quyền hàng tỷ đô la viện trợ nước ngoài và những gói viện trợ vũ khí cho Ukraina.
Vào tháng 4 năm 2023, Biden đã công bố chiến dịch tái tranh cử của mình. Sau các cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ năm 2024, ông đã trở thành ứng cử viên được cho là của đảng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2024. Nhưng Biden đã rút lui khỏi ứng cử vào tháng 7 năm 2024 sau một loạt các vấn đề về tuổi tác và sức khỏe. Ông đã ủng hộ Phó Tổng thống Kamala Harris thay thế ông làm ứng cử viên, đồng thời nói rằng ông sẽ vẫn là tổng thống cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ của mình.
(*) Thiếu thời và giáo dục
Joseph Robinette Biden Jr. sinh ngày 20 tháng 11 năm 1942 tại bệnh viện Thánh Mary ở Scranton, Pennsylvania. Mẹ của ông là Catherine Eugenia "Jean" Biden (họ gốc Finnegan) và bố của ông là Joseph Robinette Biden Sr. Ông có một em gái và hai em trai. Gia đình ông theo Công giáo Roma. Jean là người gốc Ireland. Bố mẹ của Joseph Sr., Mary Elizabeth (họ gốc là Robinette) và Joseph H. Biden, một doanh nhân dầu mỏ đến từ Baltimore, Maryland, là người gốc Anh, Pháp và Ireland. Ông cố nội đời thứ ba của Biden, William Biden, được sinh ra ở Sussex, Anh và nhập cư vào Hoa Kỳ. Ông cố ngoại của ông, Edward Francis Blewitt, có bố mẹ là người nhập cư Ireland từ Rappagh, Ballina, County Mayo và từng là Nghị sĩ Thượng viện bang Pennsylvania.
Bố của Biden từng giàu có nhưng đã gặp một số khó khăn về tài chính trước khi con trai đầu của ông chào đời. Gia đình Biden đã phải sống cùng ông bà ngoại của ông, nhà Finnegan, trong vài năm. Khi vùng Scranton bị suy thoái kinh tế trong những năm 1950, bố của Biden đã không tìm được việc làm ổn định. Năm 1953, gia đình Biden chuyển đến một căn hộ ở Claymont, Delaware và sống ở đây vài năm rồi tiếp tục chuyển đến một căn nhà ở Wilmington, Delaware. Joe Biden Sr. sau đó trở thành một doanh nhân bán ô tô cũ thành đạt và duy trì được lối sống trung lưu của gia đình.
Biden theo học tại Học viện Archmere ở Claymont, nơi ông giữ các vị trí trung vệ và tiền đạo bắt bóng trong đội tuyển bóng bầu dục của trường; khi đang học năm cuối, ông đã góp phần dẫn dắt đội tuyển từng liên tục thua giành chiến thắng cả một mùa giải. Ông cũng tham gia đội tuyển bóng chày. Về mặt học tập, ông là một học sinh kém nhưng lại được xem là một nhà lãnh đạo thiên bẩm và được bầu làm chủ tịch lớp khi đang học năm ba và năm cuối. Ông tốt nghiệp vào năm 1961.
Ông tốt nghiệp Cử nhân Nghệ thuật trường Đại học Delaware vào năm 1965, với hai chuyên ngành chính lịch sử và khoa học chính trị, cũng như chuyên ngành phụ ngôn ngữ Anh. Ông chơi ở vị trí trung vệ trong đội bóng bầu dục năm nhất Blue Hens. Năm 1964, ông gặp Neilia Hunter, người mà ông sau đó kết hôn cùng.
Biden tốt nghiệp trường Luật của Đại học Syracuse với bằng Tiến sĩ luật vào năm 1968. Sau này ông đã nói trường luật là "thứ nhàm chán nhất thế giới". Ông gia nhập Đoàn luật sư bang Delaware vào năm 1969.
Khi đang học năm nhất tại Syracuse, Biden bị cáo buộc là đã đạo văn 5 trong số 15 trang của một bài báo về luật. Ông cho biết việc này là ngoài ý muốn và do ông không biết các quy tắc dẫn nguốn. Kết quả là ông đã bị đánh trượt và phải học lại môn đó. Việc này đã được nhắc đến vào năm 1987 khi ông đang tranh cử Tổng thống lần đầu tiên.
Trong giai đoạn này, Biden được hưởng chế độ hoãn nghĩa vụ quân sự dành cho sinh viên. Sau khi hoàn thành việc học, ông được đánh giá là không thể thực hiện nghĩa vụ quân sự vì tiền sử bệnh hen phế quản.
Biden bị chứng nói lắp, nhưng đã cải thiện kể từ những năm 20 tuổi. Ông cho biết đã khắc phục điều này bằng cách đọc thơ trước gương, nhưng đôi khi nó vẫn xuất hiện "chẳng hạn như khi ông rất mệt". Một số ý kiến cho rằng điều này đã ảnh hưởng đến sự thể hiện của ông trong các cuộc tranh luận bầu cử ứng viên tổng thống của Đảng Dân chủ năm 2020.
Định kiến về việc uống rượu trong gia đình Biden và gia đình Finnegan đã khiến Biden theo chủ nghĩa bài rượu.
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm & Đáng tin cậy!
///---
15 tháng 11 2024
Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng đồng Sống tử tế
Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng đồng Sống tử tế
(*) Đôi nét về thầy Trần Việt Quân
– Sáng lập & Cố vấn hệ thống trường Liên cấp Tuệ Đức.
– Sáng lập viên Câu lạc bộ Dạy Con Nên Người.
– Giảng viên đào tạo tại Bách Khoa Education: hơn 250 khóa học Chánh kiến trên các quốc gia và tỉnh thành tại Việt Nam.
– Kinh nghiệm hơn 20 năm về Đông phương học, Nhân tướng, Quản trị Nhân sự & Điều hành, Đạo đức học Nhật Bản, Giáo dục Nhân cách cốt lõi.
(*) Thư ngỏ - Từ Thầy Trần Việt Quân - Tác giả - Diễn giả
Chào bạn!
Có bao giờ bạn thấy lạc lõng chênh vênh, lạc đường, mất định hướng? Có bao giờ bạn giận hờn vô cớ, cãi nhau với đồng nghiệp, gây gổ với vợ/chồng, bất lực với con cái? Có bao giờ bạn tự hỏi giá trị sâu sắc nhất trong cuộc đời mình là gì? Mình đến trần gian này để làm gì? Tại sao mình lại đang ở đây? Trong hoàn cảnh này? Chính tôi cũng từng trải qua những cảm giác đó. Và tôi đã đi tìm suốt 20 năm cho câu trả lời, bằng việc nghiên cứu, bằng kinh nghiệm qua nhiều doanh nghiệp với nhiều vị trí khác nhau, từ làm thuê, khởi nghiệp cho đến làm chủ.
Tôi đã chia sẻ, gặp gỡ và tư vấn cho hàng nghìn con người… và cuối cùng tôi đã tìm thấy con đường thật sự để giải quyết tất cả những điều trên, giúp tôi tìm ra được ý nghĩa sâu sắc của cuộc đời mình.
Khi bạn có được sự hiểu biết đúng đắn, rõ ràng và sâu sắc, cái hiểu chân chính và đa chiều. Đặc biệt sự hiểu biết dựa trên nền quy luật quyền năng nhất vũ trụ – Luật Nhân Quả và Duyên Khởi. Khi đó bạn sẽ bước đi ung dung trên con đường đời dù là đầy chông gai, bạn hiểu rõ mình cần làm gì để vượt qua mọi cám dỗ của cuộc sống, và quan trọng nhất là chiến thắng chính bản thân mình.
Tôi đã tiếp tục đồng hành và chia sẻ với hơn 50.000 bạn khắp mọi tỉnh thành cả nước. Họ đã thay đổi và tìm ra được giá trị sống sâu sắc của cuộc đời. Nếu bạn quan tâm có thể tìm hiểu tại đây! Tôi cũng như họ và bạn cũng như thế, dù chúng ta là ai, dù chúng ta làm nghề gì đi chăng nữa thì chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống.
“Chúng ta không được chọn hoàn cảnh khi sinh ra, nhưng được quyền tạo dựng một nhân cách sống.”
Vậy bạn chọn sống một cuộc đời như thế nào là do bạn? Tôi mong muốn cống hiến và lan tỏa giá trị của con đường này đến nhiều người hơn nữa. Để mỗi ngày sống là một niềm vui và ý nghĩa.
Bạn cùng tôi chung tay lan tỏa để chúng ta cùng xây dựng một gia đình lớn.
“Cộng đồng sống đầy Tử Tế và cống hiến hết mình” – Đó cũng là sứ mệnh của tôi!
(*) Sách hay - Tủ Sách Tinh hoa - và các Tác phẩm từ Tác giả Trần Việt Quân
1. Tác phẩm "Việt Sử Kiêu Hùng" - Thông điệp cốt lõi của Tác phẩm này là "Ai trưởng thành thông qua lịch sử, người đó nắm trọn vẹn tinh túy của thời cuộc" - Trần Việt Quân
2. "Góc nhìn AQ" - Thông điệp cốt lõi của quyển sách này là "Trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và thành công, chúng ta có xu hướng chạy theo những mục tiêu và thành tựu bề ngoài mà quên đi việc thăm dò bên trong và khám phá tâm hồn của mình, khám phá những vẻ đẹp rất chân thật của cuộc sống, của tình người bao la, của những quy luật diệu kỳ trùm phủ lên vũ trụ này. Có bao giờ bạn tự hỏi giá trị sâu sắc nhất trong cuộc đời này là gì? Ẩn chìm dưới những sự vật, hiện tượng, những niềm tin xưa cũ là điều gì đang hiện hữu?"
3. Và các Tác phẩm khác!
///---THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
Nguồn: Sưu tầm - Đáng tin cậy!
///---06 tháng 11 2024
Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 45 (và 47) của Hoa Kỳ
Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 45 (và 47) của Hoa Kỳ
Donald John Trump (phát âm tiếng Anh: /ˈdɒnəld d͡ʒɒn trʌmp/ ⓘ; sinh ngày 14 tháng 6 năm 1946) là một tỷ phú, doanh nhân và chính trị gia người Mỹ. Ông là Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ từ 2017 đến năm 2021 (và Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ).
(*) Tiểu sử
Donald Trump sinh ra và lớn lên ở Queens, một quận của Thành phố New York, theo học Đại học Fordham trong hai năm và nhận bằng cử nhân kinh tế của Trường Wharton thuộc Đại học Pennsylvania. Ông trở thành chủ tịch công ty kinh doanh bất động sản của cha mình vào năm 1971, sau đó đổi tên công ty thành Tổ chức Trump và mở rộng hoạt động từ Queens và Brooklyn sang Manhattan. Công ty chuyên xây dựng và cải tạo các tòa nhà chọc trời, khách sạn, sòng bạc và sân gôn. Trump sau đó đã bắt đầu nhiều dự án phụ khác nhau, chủ yếu bằng việc cấp phép tên của mình. Ông mua lại quyền sở hữu ba cuộc thi sắc đẹp là Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Mỹ và Hoa hậu Tuổi Teen Mỹ vào năm 1996 và đã bán nó vào năm 2015. Trump và các doanh nghiệp của ông bị liên đới tới hơn 4.000 bang và liên bang hành động pháp lý, trong đó có sáu lần tuyên bố phá sản. Ông đã sản xuất và dẫn chương trình The Apprentice, một loạt phim truyền hình thực tế, từ năm 2003 đến năm 2015. Tính đến năm 2020, Forbes ước tính giá trị tài sản ròng của Trump là 2,1 tỷ USD.
(*) Sự nghiệp Kinh doanh
Khi Trump tốt nghiệp đại học, tổng tài sản của ông đạt khoảng 200.000 USD (1.021.000 USD theo thời giá 2016). Ông khởi nghiệp tại công ty bất động sản của cha mình, Elizabeth Trump & Son, nơi tập trung chủ yếu vào mảng nhà cho thuê dành cho giới trung lưu tại các quận Brooklyn, Queens và Staten Island của Thành phố New York. Trong những năm học đại học, một trong những dự án đầu tiên của Trump là việc hồi sinh tổ hợp căn hộ Swifton Village ở Cincinnati, Ohio, được cha ông mua lại với giá 5,7 triệu USD năm 1962. Fred và Donald Trump đều tham gia vào dự án, nâng mật độ dân cư của 1.200 căn hộ từ 34% lên 100% với khoản đầu tư 500.000 USD. Trump quản lý 14.000 căn hộ của công ty ở Brooklyn, Queens và Staten Island. Năm 1972, The Trump Organization bán Swifton Village với giá 6,75 triệu USD.
Năm 1971, Trump tới Manhattan, tham gia vào những dự án xây dựng lớn hơn và áp dụng các thiết kế kiến trúc hấp dẫn để thu hút sự chú ý của công chúng. Trump bắt đầu nhận được sự chú ý vào năm 1973, khi ông bị Bộ Tư pháp Hoa Kỳ cáo buộc đã vi phạm Đạo luật Nhà ở Công bằng trong quá trình quản lý 39 tòa nhà. Trump cáo buộc ngược lại Bộ Tư pháp nhắm vào ông vì công ty ông lớn, ép ông phải cho những đối tượng đang hưởng trợ cấp thuê nhà. Trump dàn xếp xong vụ kiện vào năm 1975, nói rằng ông hài lòng vì phán quyết đã không "ép The Trump Organization cho các đối tượng đang nhận trợ cấp thuê nhà, trừ khi họ đạt đủ điều kiện như những người khác".
Trump có quyền chọn được mua và lập kế hoạch phát triển tài sản của một công ty vận tải đã phá sản Penn Central. Hợp đồng bao gồm sân ga Phố 60 dọc Sông Hudson – sau này được phát triển thành khu Riverside South – và khu đất xung quanh Grand Central Terminal mà Trump đã mua với giá 60 triệu USD và không phải đặt cọc. Sau này, với khoản ưu đãi giảm thuế 40 năm từ chính quyền Thành phố New York, ông đã biến khách sạn đã phá sản Commodore cạnh Grand Central thành Grand Hyatt và lập nên The Trump Organization.
Trump từng đề xuất xây Trung tâm Hội nghị Jacob K. Javits theo dự kiến của Thành phố New York trên sân ga Phố 30 của Penn Central. Trump ước tính rằng công ty của mình có thể hoàn thành dự án với 110 triệu USD, nhưng trong khi chính quyền thành phố đồng ý với đề xuất của Trump, họ từ chối lời mời thầu và thay vào đó Trump nhận một khoản phí môi giới từ việc bán tài sản. Việc sửa chữa sân băng Wollman (khánh thành năm 1955) ở Công viên Trung tâm được tiến hành vào năm 1980 với thời gian dự kiến là hai năm, nhưng tới năm 1986 vẫn chưa xong. Trump tiếp quản dự án mà không cần thành phố chi trả thêm bất cứ khoản nào và hoàn thành trong ba tháng với chi phí 1,95 triệu USD, ít hơn ngân sách ban đầu 750.000 USD.
Năm 1988, Trump mua lại Taj Mahal Casino sau một thương vụ với Merv Griffin và Resorts International, dẫn tới một khoản nợ lớn nên tới năm 1989, Trump không có khả năng trả các khoản vay. Mặc dù ông tìm được các khoản vay mới và gia hạn việc trả lãi, nợ ngày một nhiều khiến công ty của Trump phá sản vào năm 1991. Ngân hàng và các chủ trái phiếu bị thiệt hại hàng trăm triệu USD nhưng lựa chọn việc tái cấu trúc lại nợ. Taj Mahal thoát khỏi phá sản vào ngày 5 tháng 10 năm 1991 khi Trump nhượng lại 50 phần trăm cố phần ở sòng bạc cho các chủ trái phiếu ban đầu để đổi lấy mức lãi suất thấp hơn cho các khoản nợ và kéo dài thời gian đáo hạn. Ông cũng bán đi công ty hàng không làm ăn kém hiệu quả Trump Shuttle và du thuyền dài 85m Trump Princess của mình. Những năm cuối của thập kỉ 1990 chứng kiến sự phục hồi về mặt tài chính của Trump. Năm 1999, cha của Trump sau khi mất đã chia đều cho bốn người con còn sống của mình mỗi người từ 250–300 triệu USD.
Năm 2001, Donald Trump khánh thành Trump World Tower, tòa cao ốc dân sinh 72 tầng đối diện Trụ sở Liên Hợp Quốc. Ông cũng bắt tay vào xây dựng Trump Place, tổ hợp văn phòng dọc Sông Hudson. Trump sở hữu mặt bằng kinh doanh tại Trump International Hotel & Tower, tòa nhà phức hợp 44 tầng (khách sạn và chung cư) tại Bùng binh Columbus. Trump cũng sở hữu hàng trăm nghìn mét vuông bất động sản hạng nhất tại Manhattan.
Trump đã cho thuê tên và hình ảnh của mình trong nhiều dự án bất động sản. Có ít nhất hai dự án bất động sản mang thương hiệu Trump đã bị tịch biên. Chủ sở hữu người Thổ Nhĩ Kỳ của Trump Towers Istanbul, người đã mua quyền sử dụng tên của Trump, vào tháng 12 năm 2015 được cho là đã tìm các biện pháp pháp lý để chấm dứt mối liên hệ sau khi Trump kêu gọi cấm người Hồi giáo nhập cảnh vào Mỹ.
Năm 2015, Forbes ước tính tài sản của Trump là 4 tỉ USD. Tháng 6 năm 2015, Business Insider công bố bản báo cáo tài chính ngày 30 tháng 6 năm 2014 được cung cấp bởi Trump. Bản báo cáo đưa ra con số tổng tài sản 8,7 tỉ USD. Trong số đó, 3,3 tỉ USD đến từ "Hợp đồng cho thuê Thương hiệu Bất động sản, Thương hiệu và các Phát triển gắn với Thương hiệu", mà Business Insider mô tả rằng", Trump định giá bản thân mình 3,3 tỉ USD".
(*) Sách đã phát hành
• Trump: The Art of the Deal (Trump: Nghệ thuật đàm phán) (1987), ISBN 978-0-345-47917-4
• Trump: Surviving at the Top (Trump: Sinh tồn trên đỉnh cao) (1990), ISBN 978-0-394-57597-1
• Trump: The Art of Survival (Trump: Nghệ thuật sinh tồn) (1991), ISBN 978-0-446-36209-2
• Trump: The Art of the Comeback (Trump: Nghệ thuật lội ngược dòng) (1997), đồng tác giả Kate Bohner, ISBN 978-0-8129-2964-5
• The America We Deserve (Nước Mỹ mà chúng ta đáng được hưởng) (2000), với Dave Shiflett, ISBN 1-58063-131-2
• Trump: How to Get Rich (Trump: Học cách làm giàu) (2004), ISBN 978-0-345-48103-0
• The Way to the Top: The Best Business Advice I Ever Received (Con đường tới đỉnh cao: Lời khuyên kinh doanh tốt nhất mà tôi từng được nghe) (2004), ISBN 978-1-4000-5016-1
• Trump: Think Like a Billionaire: Everything You Need to Know About Success, Real Estate, and Life (Trump: Nghĩ như tỷ phú: Mọi điều bạn cần biết về thành công, bất động sản và cuộc sống) (2004), ISBN 978-0-345-48140-5
• Trump: The Best Golf Advice I Ever Received (Trump: Lời khuyên về golf tốt nhất mà tôi từng được nghe) (2005), ISBN 978-0-307-20999-3
• Why We Want You to be Rich: Two Men – One Message (Lý do làm giàu: Hai người – Một thông điệp) (2006), đồng tác giả Robert Kiyosaki, ISBN 978-1-933914-02-2
• Think Big and Kick Ass in Business and Life (Nghĩ lớn và thành công trong công việc và cuộc sống) (2007), đồng tác giả Bill Zanker, ISBN 978-0-06-154783-6
• Trump: The Best Real Estate Advice I Ever Received: 100 Top Experts Share Their Strategies (Trump: Lời khuyên về bất động sản tốt nhất mà tôi từng được nghe: 100 chuyên gia hàng đầu chia sẻ chiến lược của họ) (2007), ISBN 978-1-4016-0255-0
• Trump 101: The Way to Success (Trump 101: Con đường thành công) (2007), ISBN 978-0-470-04710-1
• Trump Never Give Up: How I Turned My Biggest Challenges into Success (Trump không bao giờ bỏ cuộc: Cách tôi biến các thách thức lớn nhất thành thành công) (2008), ISBN 978-0-470-19084-5
• Think Like a Champion: An Informal Education in Business and Life' (Nghĩ như Nhà vô địch: Một bài học không chính thức về kinh doanh và cuộc sống) ' (2009), ISBN 978-0-7624-3856-3
• Midas Touch: Why Some Entrepreneurs Get Rich—and Why Most Don't (Bàn tay của Midas: Lý do một số doanh nhân thì giàu – và phần lớn thì không) (2011), đồng tác giả Robert T. Kiyosaki, ISBN 978-1-61268-095-8
• Time to Get Tough: Making America No. 1 Again (Đã đến lúc phải cứng rắn: Đưa Hoa Kỳ trở lại top 1 (2011), ISBN 978-1-59698-773-9
• Crippled America: How to Make America Great Again (Nước Mỹ tật nguyền: Làm sao để chấn hưng nước Mỹ (2015), ISBN 978-1-5011-3796-9
///---
THẾ GIỚI DANH NHÂN ghi nhận & phát hành!
///---
"SELF-ENQUIRY, "WHO AM I?""
ĐỌC NHIỀU
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11, 1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi ...
-
Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 45 (và 47) của Hoa Kỳ Donald John Trump ( phát âm tiếng Anh: /ˈ...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Voltaire - Nhà văn, Sử gia, Triết gia Pháp thời Khai sáng François-Marie Arouet (21 tháng 11 năm 1694 – 30 tháng 5 năm 1778), được...
DANH MỤC
A
ABRAHAM LINCOLN
ANH HÙNG
ANH QUỐC
ARTHUR ASHE
B
BÁC SĨ
BÀI CA
BENJAMIN SPOCK
C
CA SĨ
CẦU THỦ
CEO
CHA ĐẺ
CHIẾN LƯỢC GIA
CHÍNH KHÁCH
CHÍNH TRỊ
CHÍNH TRỊ GIA
CHỦ TỊCH
CHỦ TỊCH HĐQT
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
CHUYÊN GIA
CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
CỐ VẤN
CÔNG CHÚA
CÔNG GIÁO
D
DANH NGÔN
DANH NHÂN
DANH NHÂN CỔ ĐẠI
DANH NHÂN PHILIPPINES
DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
DANH NHÂN VẦN
DANH NHÂN VẦN A
DANH NHÂN VẦN B
DANH NHÂN VẦN C
DANH NHÂN VẦN D
DANH NHÂN VẦN Đ
DANH NHÂN VẦN E
DANH NHÂN VẦN F
DANH NHÂN VẦN G
DANH NHÂN VẦN H
DẠNH NHÂN VẦN I
DANH NHÂN VẦN J
DANH NHÂN VẦN K
DANH NHÂN VẦN L
DANH NHÂN VẦN M
DANH NHÂN VẦN N
DANH NHÂN VẦN O
DANH NHÂN VẦN P
DANH NHÂN VẦN Q
DANH NHÂN VẦN R
DANH NHÂN VẦN S
DANH NHÂN VẦN T
DANH NHÂN VẦN V
DANH NHÂN VẦN W
DANH NHÂN VIỆT
DANH NHÂN VIỆT NAM
DANH SĨ
DANH VẦN M
DỊCH GIẢ
DIỄM XƯA
DIỄN GIẢ
DIỄN VĂN
DIỄN VIÊN
DO THÁI
DOANH NHÂN
DONALD TRUMP
ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
ĐẠI THI HÀO
ĐẠI TƯỚNG
ĐẤT NƯỚC
ĐỘ C
G
GIẢI NOBEL
GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
GIÁM MỤC
GIẢNG VIÊN
GIÁO CHỦ
GIÁO DỤC
GIÁO SĨ
GIÁO SƯ
GỐC BALTIC
GỐC DO THÁI
GỐC PHÁP
GỐC PHI
Günter Wilhelm Grass
H
HIỀN GIẢ
HIỀN TÀI
HIỆN TẠI
HÌNH HỌC
HÌNH HỌC PHI EUCLIDE
HOA KỲ
HỌA SĨ
HOÀNG ĐẾ
HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
HOÀNG GIA
HOÀNG TỬ
HỘI HOÀNG GIA
HUY CHƯƠNG FIELDS
HUỲNH GIA
I
J.K ROWLING
KHOA HỌC
KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
KINH TẾ
KINH TẾ GIA
KỸ SƯ
L
LÃNH TỤ
LIÊN BANG XÔ VIẾT
LINH MỤC CÔNG GIÁO
LUẬN VỀ DANH NGÔN
LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
LUẬT SƯ
LƯƠNG THẾ VINH
M
MARTIN LUTHER
MARTIN LUTHER KING
MỤC SƯ
N
NAPOLEON HILL
NGÂN HÀNG
NGHỆ NHÂN
NGHỆ SĨ
NGUYỄN ĐÌNH THI
NGUYÊN KHÍ
NGUYỄN TRÃI
NGƯỜI ANH
NGƯỜI ÁO
NGƯỜI BỈ
NGƯỜI CUBA
NGƯỜI DO THÁI
NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
NGƯỜI ĐAN MẠCH
NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
NGƯỜI ĐỨC
NGƯỜI HINDU
NGƯỜI IRELAND
NGƯỜI ISRAEL
NGƯỜI MẪU
NGƯỜI MỸ
NGƯỜI MÝ
NGƯỜI NGA
NGƯỜI NHẬT
NGƯỜI PHÁP
NGƯỜI PHÁT MINH
NGƯỜI SCOTLAND
NGƯỜI TRUNG QUỐC
NGƯỜI VIỆ
NGƯỜI VIỆT
NGƯỜI VIỆT NAM
NGƯỜI Ý
NHÀ BÁC HỌC
NHÀ BÁO
NHÀ CHẾ TẠO
NHÀ CỐ VẤN
NHÀ ĐỊA CHẤT
NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
NHÀ GIÁO
NHÀ HÓA HỌC
NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
NHÀ HÓA SINH
NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
NHÀ KHOA HỌC
NHÀ LÃNH ĐẠO
NHÀ LẬP TRÌNH
NHÀ NGHIÊN CỨU
NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
NHÀ NGOẠI GIAO
NHÀ PHÁT MINH
NHÀ PHỤC HƯNG
NHÀ QUÂN SỰ
NHÀ SÁNG CHẾ
NHÀ SÁNG LẬP
NHÀ SINH HỌC
NHÀ SINH LÝ HỌC
NHÀ SINH VẬT HỌC
NHÀ SOẠN KỊCH
NHÀ SỬ HỌC
NHÀ TẠO MẪU
NHÀ THIÊN VĂN
NHÀ THIÊN VĂN HỌC
NHÀ THÔNG THÁI
NHÀ THƠ
NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
NHÀ TOAAN HỌC
NHÀ TOÁN HỌC
NHÀ TRIẾT HỌC
NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
NHÀ TỪ THIỆN
NHÀ VĂN
NHÀ VĂN HÓA
NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
NHÀ VĂN VIỆT NAM
NHÀ VẬT LÝ
NHÀ VẬT LÝ HỌC
NHÀ VIẾT KỊCH
NHÀ VIRUS HỌC
NHÀ XÃ HỘI HỌC
NHẠC CÔNG
NHẠC SI
NHẠC SĨ
NHẠC SĨ TÂN NHẠC
NHẦ VẬT LÝ
NHÂN KHẨU HỌC
NHÂN VẬT HOÀNG GIA
NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
NHÂN VẬT LỊCH SỬ
NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
NHẬT BẢN
NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
NHIẾP ẢNH GIA
NHIỆT ĐỘ
NỮ THỐNG THỐNG
OPRAH WINFREY
ÔNG CHỦ
P
PHẬT GIÁO
PHẬT GIÁO HÒA HẢO
PHI HÀNH GIA
PHILIPPINES
PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
PHƯƠNG TRÌNH
PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
PLATON
S
SÁCH HAY
SÁNG LẬP VIÊN
SĨ QUAN HẢI QUAN
SOCRATES
SỬ GIA
T
TÁC GIA
TÁC GIẢ
TÀI CHÍNH
THÁI LAN
THÀNH LỘC
THÂN NHÂN TRUNG
THẦY THUỐC
THI HÀO
THI SĨ
THƠ
THỦ LĨNH
THỦ TƯỚNG
TIẾN SĨ
TIỂU THUYẾT GIA
TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
TK - NGHIỆM
TỔNG BÍ THƯ
TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TỔNG GIÁM ĐỐC
TỔNG THỐNG
Tổng thống Mỹ
TRIẾT GIA
TRỊNH CÔNG SƠN
TRUNG QUỐC
TỰ VẤN
TỶ PHÚ
VĂN HÓA - XÃ HỘI
VĂN SĨ
VẬT LÝ
VẬT LÝ LÝ THUYẾT
VỆT NAM
VIỆT KIỀU
VIỆT NAM
VÕ TƯỚNG
VOLTAIRE
VỘI VÀNG
Vua
XUÂN DIỆU
XUÂN QUỲNH
XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia