Trịnh Công Sơn - Nhạc sĩ nổi tiếng nhất của Tân nhạc Việt Nam
Trịnh Công Sơn
(28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001) là một nam nhạc sĩ người Việt Nam.
Ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của Tân nhạc và nằm trong danh
sách những nghệ sĩ âm nhạc Việt Nam có lượng đĩa bán chạy nhất. Hiện nay chưa
có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông (ước đoán con số không dưới
600 ca khúc). Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca
khúc (cả lời và nhạc). Nhạc của Trịnh Công Sơn được nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng
thành công hơn cả là Khánh Ly, danh ca gắn liền tên tuổi với hàng trăm ca khúc
của ông. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ, một diễn viên
và một ca sĩ (ông từng biểu diễn một số bài hát do chính mình sáng tác).
Tiểu sử
Cuộc sống thời niên thiếu
Ông nguyên quán ở làng Minh Hương, xã
Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ông lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông
theo học các trường Lycée Français và Providence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học
triết học trường Tây Lycée Jean Jacques Rousseau và tốt nghiệp tú tài tại đây.
Năm 1957, khi 18 tuổi, ông bị một tai
nạn, khi đang tập võ judo với người em trai, ông bị thương nặng ở ngực, suýt chết
và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Cũng theo một nguồn tin khác như lời
kể của bà Trịnh Vĩnh Trinh (em gái cố nhạc sĩ): "Năm anh Sơn 18 tuổi, ba mất, để lại mẹ và bảy người em. Lúc đó, anh còn
quá trẻ, không biết phải làm sao. Mấy tháng liền, trời nắng chang chang, anh
lên mộ ba ngồi cả ngày. Anh ốm nặng một trận. Khi khỏi, anh nhờ má mua cho cây
đàn để viết nhạc". Bà Trịnh Vĩnh Trinh kể ở tuổi 18, trở thành trụ cột
gia đình, Trịnh Công Sơn loay hoay không biết phải bắt đầu thế nào. Ông mua rất nhiều sách để đọc và dạy các em.
Ông bắt năm em gái tập đi mỗi sáng với một quyển sách được đặt trên đầu, phải
bước đi sao cho duyên dáng, khoan thai. Ông coi trọng lễ nghi, luôn dặn dò các
em không được gắp thức ăn trước người lớn trong bữa cơm, không được chống hai
tay trên bàn khi có bề trên. Ông nghiêm khắc, từng đánh đòn em nhưng sau này,
ông hối hận nói: "Lúc đó anh còn trẻ
quá, chẳng biết làm sao". Thời gian nằm bệnh, ông đọc nhiều sách về
triết học, văn học, tìm hiểu dân ca. Ông từng thổ lộ: "Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một
niềm đam mê khác – âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những
điều mơ ước, khát khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng
được đánh thức, trỗi dậy".
Theo ông cho biết, ông sáng tác bài Sương đêm và Sao chiều vào năm 17 tuổi.
Nhưng tác phẩm được công bố đầu tiên của ông là Ướt mi, do nhà xuất bản An Phú phát hành vào ngày 20 tháng 9 năm
1960 và qua giọng ca Thanh Thúy.
Năm 1961, vì muốn tránh thi hành
nghĩa vụ quân sự nên ông thi và theo học ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường
Sư phạm Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp ông dạy tại một trường tiểu học ở Bảo Lộc,
Lâm Đồng.
Ông là một trí thức đấu tranh tích cực
cho phong trào hòa bình tại miền Nam. Năm 1968, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã gặp
quân nhân miền Bắc trong 26 ngày đêm tranh giành Huế. Vào năm 1970, ông đã tham
gia phong trào Tự quyết với Ngô Kha, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn và
Thái Ngọc San.
Sự nghiệp
Tên
tuổi của Trịnh Công Sơn được nhiều
người biết đến hơn, từ khi ông cùng ca sĩ Khánh Ly hát tại Quán Văn, một quán
cà phê đơn sơ dựng trên bãi đất cỏ sau Trường
Đại học Văn khoa Sài Gòn do nhóm sinh viên mang tên Khai Hóa trong phong
trào phục vụ thanh niên xã hội chủ trương, từ cuối năm 1966. Trong những năm
sau đó, nhạc của ông được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là
Khánh Ly. Ông kể: "Gặp gỡ ca sĩ
Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh
Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng
tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của mình đang viết và lúc
đó tôi chưa tìm ra ca sĩ nào ngoài Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng
giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly
chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho
phép mình tập trung viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời
những bài hát của tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly",
còn Khánh Ly kể lại giai đoạn cơ cực đói khổ nhưng đầy hạnh phúc những năm 1960
ấy: "Thực sự tôi rất mê hát. Không
mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng
xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày
mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy mình thực là hạnh phúc, cảm thấy
mình sống khi mình được hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn".
Một số
bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với
công chúng Nhật Bản năm 1970 như "Diễm
xưa" (do Khánh Ly biểu diễn bằng cả tiếng Nhật và tiếng Việt), "Ca dao Mẹ", "Ngủ đi con". Riêng bài Ngủ đi con
đã phát hành trên hai triệu đĩa than. Vì lời lẽ trong nhiều bài hát của ông có
tính chất phản chiến, nhà cầm quyền Việt Nam Cộng hòa đã cấm lưu hành vài tác
phẩm của ông. Theo tác giả Ban Mai, trong cuốn "Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng", nhiều ca khúc của ông có
thông điệp phản chiến bị cả hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng
hòa cấm lưu hành, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng không tán
thành thái độ phản chiến của ông về chiến tranh, vốn mang tính "chủ hòa, ủy
mị", làm nản lòng những người đang đấu tranh chống xâm lược và thống nhất
đất nước. Theo tác giả Ban Mai, trong cuốn "Trịnh Công Sơn – vết chân dã tràng", Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
thì có những người phê phán ông vì coi ông là "thiếu lập trường chính trị",
có những người cực đoan đòi sau khi tiến về Sài Gòn sẽ "xử tử" ông.
Trưa
ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lên Đài phát thanh Sài Gòn hát bài "Nối vòng tay lớn". Cũng chính ông
là người trưa ngày 30/4 đã đứng lên phát biểu trực tiếp trên đài phát thanh Sài
Gòn sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh. Trong bài phát biểu,
ông kêu gọi người dân miền Nam ủng hộ Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt
Nam.
"Hôm nay là ngày mơ ước của tất
cả chúng ta... Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này...
Những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì hôm
nay chúng ta đã đạt được tất cả kết quả đó... Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ
sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem
những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước... Chính phủ Cách mạng lâm thời đến
đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra
đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất
và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục
năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của
tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng
nói xây dựng miền Nam Việt Nam này...".
Theo
BBC, sau khi chiến tranh kết thúc, gia đình ông di cư sang Mỹ và ông phải đi học
tập cải tạo trong 4 năm. Tuy nhiên, theo tác giả Bùi Đức Lạc (một người bạn
thân của Trịnh Công Sơn) thì ông chỉ đi làm kinh tế mới vài năm chứ không hề có
cải tạo, nguồn khác thì nói ông đi học tập chính trị 2 năm ở Cồn Tiên. Theo
Nguyễn Đắc Xuân, thời gian đầu sau khi kết thúc chiến tranh năm 1975, "Đối với lãnh đạo thì không có vấn đề gì,
nhưng có nhiều "anh em phong trào" ở Sài Gòn không thích quan điểm lập
trường chung chung của Trịnh Công Sơn trước đây", ông trở về Huế và
"thời gian đó một số phần tử quá khích theo phong trào "Hồng vệ
binh" của Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa đã kích động sinh viên treo một tấm
banderole to tướng mang dòng chữ xanh rờn: "Hạ bệ Phạm Duy - Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn" trước trường
Đại học Sư phạm Huế" và "tiếp theo là cuộc tọa đàm luận tội "Trịnh
Công Sơn có công hay có tội" tại Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế. Hôm ấy có cả
Trần Hoàn, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc
Xuân, Trần Viết Ngạc và vài người nữa. Có người lên án, nhưng cũng có người bảo
vệ. "Tội" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là ông đã làm nhạc phản chiến một
cách chung chung, không phân biệt được chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải
phóng dân tộc trong bài "Gia tài của mẹ" với câu Hai mươi năm nội chiến
từng ngày. Thậm chí ông còn làm nhạc ca ngợi địch trong bài "Cho một người
nằm xuống" thương tiếc đại tá không quân Sài Gòn Lưu Kim Cương tử trận –
người đã từng cưu mang ông. Nhiều người phát biểu biện hộ cho Trịnh Công Sơn:
"Đúng là Trịnh Công Sơn đã làm nhiều
bản nhạc phản chiến, anh được mệnh danh là người làm nhạc phản chiến số 1 thời ấy
giống như Bob Dylan, Joan Baez ở bên Mỹ. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tự do,
anh theo đuổi chủ nghĩa nhân bản chung chung khác chúng ta. Nhưng anh làm nhạc
trong vùng tạm chiếm, người nghe nhạc phản chiến của anh là lính Cộng hòa. Rất
nhiều lính của Thiệu đã bỏ ngũ vì nghe bản nhạc Người con gái da vàng của anh.
Chẳng có người lính cách mạng nào bỏ ngũ vì nghe nhạc của Trịnh Công Sơn cả.
Cũng như ngày xưa bên Trung Quốc, Trương Lương thổi sáo đâu phải để cho quân
mình buông kiếm! Đâu phải tự dưng chính quyền Thiệu ra lệnh tịch thu những bài
hát của Sơn". Và chính xấp tài liệu đăng lệnh của cựu Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu cấm phổ biến nhạc Trịnh Công Sơn, lệnh cấm mang số 33 ngày 8.2.1969,
đã có sức thuyết phục lớn đối với những người tham dự tọa đàm. Sau cuộc tọa
đàm, Trịnh Công Sơn phải viết kiểm điểm. Hồi ấy, những bản kiểm điểm nói không
đúng vấn đề thường phải viết lại. Trịnh Công Sơn chưa quen lối sinh hoạt này
nên rất chán chường..." Trong thời hậu chiến này, cả nước rất khó khăn và
như bao người Việt khác, Trịnh Công Sơn cũng được điều đi lao động sản xuất,
khi thì trồng khoai lang, lúc cấy lúa trên những cánh đồng đầy bom đạn chưa
tháo gỡ.
Một
thời gian dài sau 1975, nhiều bài hát của ông bị cấm lưu hành ở tại Việt Nam
hay bị một số người kêu gọi tẩy chay ở hải ngoại. Tuy nhiên, Khánh Ly và nhiều
ca sĩ vẫn tiếp tục hát và phát hành những băng đĩa với ca khúc của ông tại hải
ngoại.
Những
năm sau 1975, sau thời gian học tập chính trị, ông làm việc tại Hội Âm nhạc
Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Sóng nhạc. Từ đầu thập niên 1980, Trịnh Công Sơn
bắt đầu sáng tác lại, lúc đầu một số sáng tác ông gởi qua cho Khánh Ly và chỉ
phát hành tại hải ngoại. Khi bắt đầu được phép lưu hành nhạc trong nước, ông có
viết một số bài có nội dung ca ngợi những chủ trương của chế độ mới như Thành
phố mùa xuân, Ngọn lửa vĩnh cửu Moskva, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền
thoại Mẹ... Sau đó nhà nước Việt Nam đã nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại tiếp
tục đóng góp nhiều bản nhạc có giá trị. Các tác phẩm mới của ông tiếp tục bị
chính quyền chỉ trích, kiểm duyệt và cấm đoán đến mức ông phải biểu diễn cho bạn
bè thân hữu và nhờ họ góp ý trước khi đem phổ biến.
Trịnh
Công Sơn còn là một diễn viên điện ảnh nghiệp dư, năm 1971 đã thủ vai chính
trong phim Đất khổ. Phim hoàn tất năm 1974, nhưng chỉ được chiếu cho công chúng
xem 2 lần rồi bị Việt Nam Cộng hòa cấm không được phép trình chiếu ở Miền Nam
Việt Nam với lý do "có tính phản chiến". Sau năm 1975, bộ phim không
được trình chiếu tại Việt Nam.[ Cuối cùng, một bản phim đã về tay nhà thơ Đỗ
Trung Quân. Bộ phim được chọn là phim Việt Nam chính trong Liên hoan phim Á Mỹ
năm 1996. Năm 1997, ông và nghệ sĩ Thanh
Bạch và ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh
thực hiện album băng hình VHS của mình mang tựa đề Ru tình được Hãng phim trẻ sản
xuất năm 1996. Sau đó Hãng phim Phương Nam sản xuất lại dưới dạng VCD & DVD
năm 2004, Hòa tấu nhạc Trịnh: Chìm dưới cơn mưa (VHS thực hiện tháng 4 năm
1999). Riêng Hãng phim Phương Nam cũng thực hiện cho ông và nhạc sĩ Văn Cao
trong chương trình "Văn Cao &
Trịnh Công Sơn" năm 1998 dưới định dạng băng VHS, sau đó là VCD &
DVD. Từ đó, ông cùng bà Trịnh Vĩnh Trinh góp mặt trong những CD nhạc do ông
sáng tác và được Hãng phim Phương Nam sản xuất trong giai đoạn này như "Ru
tình", "Tình yêu tìm thấy", "Vì tôi cần thấy em yêu đời",
"Cho đời chút ơn",...
Cuối
đời, ông bị bệnh gan, thận và tiểu đường. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng sáng tác
những ca khúc mới trong những năm cuối đời mình.
Ông mất
tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh tiểu đường lúc 12 giờ 45 ngày 1 tháng 4 năm
2001 (tức ngày 8 tháng 3 năm Tân Tỵ), hàng ngàn người đã đến viếng tang và
"có thể nói, chưa có nhạc sĩ nào mất
đi lại được công chúng thương tiếc như Trịnh Công Sơn". Ông được an
táng tại Nghĩa trang chùa Quảng Bình (phường Bình Chiểu - Thành phố Thủ Đức). Từ
đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày này làm ngày tưởng niệm.
Năm
2001, nhà hát Hoà Bình cùng Hãng phim
Phương Nam thực hiện Đại nhạc hội kỷ niệm 100 ngày mất của ông mang tên
"Như một lời chia tay".
Sau đó là các liveshow tưởng nhớ ông như "Đêm thần thoại" (2005) và "Rơi lệ ru người" (2007)".
Sự nghiệp sáng tác
Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca khúc, tuy nhiên tới tháng 4 năm
2017 chỉ có 77 bài được Cục Nghệ thuật Biểu diễn cấp phép. Nnhững tác phẩm có
ca từ độc đáo, mang hơi hướng suy niệm. Theo Trung tâm Bảo vệ tác quyền âm nhạc
Việt Nam Chi nhánh phía Nam, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn là tác giả được trả tác
quyền nhiều nhất với hơn 820 triệu đồng trong năm 2015 và luôn trong top 5 nhạc
sĩ có tiền trả tác quyền cao nhất.
Tuy
nhiên, có một đánh giá khá phổ biến cho rằng phần nhạc của Trịnh Công Sơn quá
đơn điệu về đề tài, chủ yếu tập trung vào tâm trạng mơ hồ, mộng tưởng. Đánh giá
này trùng khớp với lời lý giải của ông về sự sáng tác của mình: "Tôi chỉ là 1 tên hát rong đi qua miền đất
này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo...".
Hai mảng đề tài lớn nhất trong âm nhạc Trịnh Công Sơn là tình yêu và thân phận
con người.
Nhạc tình
Tình yêu là đề tài
lớn và ảnh hưởng nhất trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những bản tình ca chiếm đa số trong danh mục nhạc
phẩm. Khả năng viết nhạc tình của Trịnh Công Sơn tưởng chừng không biết mai một
theo năm tháng, theo thời đại: từ 1958 với "Ướt mi" đã nổi tiếng cho đến thập niên 1990 ông vẫn có những
tình ca được nhiều người ưa thích: "Như
một lời chia tay", "Xin trả
nợ người"...
Nhạc tình của ông đa số là nhạc buồn, thường nói lên
tâm trạng buồn bã, cô đơn như trong "Sương
đêm", "Ướt mi",
những ca khúc nhạc tình vẫn mênh mang nỗi buồn kiếp người như "Diễm xưa", "Biển nhớ", "Tình xa", "Tình sầu", "Tình nhớ", "Em còn nhớ hay em đã quên", "Hoa vàng mấy độ", "Cỏ xót xa đưa", "Gọi tên bốn mùa", "Mưa hồng"...
Những bài hát này thường mang giai điệu nhẹ nhàng, dễ
hát, thường được viết với tiết tấu chậm, thích hợp với điệu Slow, Blues hay
Boston. Phần lời được đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, nhiều chiêm nghiệm nhờ những
biện pháp ẩn dụ, hoán dụ... đôi khi pha lẫn hơi hướng siêu thực, trừu tượng.
Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam
và hải ngoại. Tuy rằng không được giới chuyên môn đánh giá cao về phần âm nhạc,
nhưng với giai điệu gần gũi và ca từ có màu trừu tượng, ý nghĩa sâu lắng, nhạc
của ông dễ dàng đi vào lòng công chúng.
Nhạc về thân phận con người
Trịnh Công
Sơn từng nói từ khi còn trẻ ông đã luôn ám ảnh bởi cái chết nên
âm nhạc của ông mang trong đó một sự mất mát của những số phận con người. Ông
cũng ảnh hưởng bởi Phật giáo của phương Đông và chủ nghĩa siêu thực của phương
Tây, nhạc Trịnh Công Sơn thấm đượm màu sắc hiện sinh, buồn bã của các tác giả
văn học phương Tây thập niên 60 như Jean Paul Sartre, Albert Camus,... Tiêu biểu
là các ca khúc "Cát bụi", "Đêm thấy ta là thác đổ",
"Chiếc lá thu phai", "Một cõi đi về", "Phôi
pha",.... Bên cạnh đó, có những bài tuy là nhạc buồn nhưng có gợi nên tư
tưởng thiền như "Một cõi đi về", "Giọt nước cành sen".
Nhạc phản chiến
Khi tên tuổi định hình bằng nhạc tình, thì vai trò xã
hội của Trịnh Công Sơn lại gắn liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại
chiến tranh, kêu gọi hòa bình mà người ta thường gọi là nhạc phản chiến, hay
còn gọi là Ca khúc da vàng theo tên các tập nhạc của ông phát hành cuối thập
niên 1960. Những "ca khúc da vàng" thường nói lên thân phận của những
người dân một nước nhỏ bị lôi kéo vào chiến tranh và nằm trong vòng toan tính,
giành giật ảnh hưởng của những nước lớn (thường là khác màu da).
Theo Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác dạng nhạc
này vào khoảng năm 1965 – 1966, khi chiến tranh trở nên ác liệt. Năm 1966, ông
cho ra đời tập Ca khúc Trịnh Công Sơn, trong đó có manh nha một xu hướng chính
trị yếm thế. Đến năm 1967, nhạc Trịnh Công Sơn lên đến đỉnh cao của sự phản chiến
bằng tập Ca khúc da vàng. Năm sau, ông cho ra tiếp tập Kinh Việt Nam. Từ năm
1970 tới 1972 ông tự ấn hành được hai tập nhạc phản chiến là Ta phải thấy mặt
trời và Phụ khúc da vàng. Trong các băng nhạc Hát cho Quê hương Việt Nam của
Khánh Ly, những ca khúc phản chiến được bố trí khéo léo đan xen với các ca khúc
trữ tình. Những tập ca khúc vừa kể đều được phát hành hợp pháp tại miền Nam trước
1975. Chính vì thế các ca khúc phản chiến của ông được phổ biến khá rộng rãi,
có ảnh hưởng lớn đến công chúng nhất là giới trí thức, học sinh – sinh viên miền
Nam.
Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn phần lớn viết bằng
điệu Blues, cộng với lời ca đậm chất hiện thực, rất đơn sơ, trần trụi (khác hẳn
với dòng nhạc tình), trở nên những bài hát gây xúc động mạnh mẽ. Những bản nhạc
này được ông cùng Khánh Ly đem đi hát ở nhiều nơi tại miền Nam, được nhiều người
nhất là giới sinh viên nhiệt tình ủng hộ. Đây cũng là loại nhạc làm cho danh tiếng
của Trịnh Công Sơn lan ra thế giới: nhờ nhạc phản chiến ông được một Đĩa Vàng
(giải thưởng âm nhạc) tại Nhật và có tên trong tự điển bách khoa Encyclopédie
de tous les pays du monde của Pháp.
Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn hay Phạm Duy và các nhạc
sĩ khác được cho là có vai trò trong giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam,
bên cạnh phong trào Hát cho dân tôi nghe của Tôn Thất Lập. Cũng vì loại nhạc
không rõ nghiêng về phe nào này mà ông đã bị tẩy chay nhiều lần từ cả hai phe đối
địch. Nhưng về phía Trịnh Công Sơn, không thể phủ nhận rằng ông đã trở thành một
tên tuổi đặc biệt nhờ vào dòng nhạc này.
Cho đến nay, sau hơn 30 năm hòa bình, rất nhiều bài
hát "da vàng" của ông chưa được phép lưu hành chính thức tại Việt Nam
hiện nay dù đã từng rất phổ biến (và được Khánh Ly phát hành băng nhạc) tại miền
Nam trong thời chiến tranh Việt Nam (như bài "Đi tìm quê hương",
"Chính chúng ta phải nói hòa bình","Gia tài của mẹ",
"Cho một người vừa nằm xuống", "Chưa mất niềm tin",
"Chờ nhìn quê hương sáng chói", "Hát trên những xác người",
"Ta đi dựng cờ", "Ta quyết phải sống").
Nhạc khác
Ngoài các bản nhạc tình và nhạc phản chiến, Trịnh Công
Sơn còn để lại những tác phẩm viết về quê hương như "Chiều trên quê hương
tôi", những tác phẩm thể hiện quan điểm chính trị rõ hơn như "Huế –
Sài Gòn – Hà Nội", "Việt Nam ơi hãy vùng lên" (1970), "Nối
vòng tay lớn", "Chưa mất niềm tin" (1972)... trong đó có những
bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường biểu tình cùng thanh
niên, sinh viên, học sinh.
Từ đầu thập niên 1980, khi bắt đầu được phép lưu hành
nhạc trong nước, ông có viết một số bài nhạc cách mạng như "Em ở nông trường
em ra biên giới", "Huyền thoại Mẹ", "Ánh sáng Mạc Tư Khoa",
"Ra chợ ngày thống nhất"...
Về sau, ông cũng viết nhạc cho thiếu nhi (trong tập nhạc
"Cho Con", xuất bản năm 1991), nhiều bài rất nổi tiếng như "Em
là hoa hồng nhỏ", "Mẹ đi vắng", "Em đến cùng mùa
xuân", "Tiếng ve gọi hè", "Tuổi đời mênh mông",
"Mùa hè đến", "Tết suối hồng", "Khăn quàng thắp sáng
bình minh", "Như hòn bi xanh", "Đời sống không già vì có
chúng em".
Hiện nay, bản quyền các tác phẩm của ông thuộc quyền
thừa kế và sở hữu bởi Trịnh Vĩnh Trinh (em gái ông, sống tại Việt Nam) và Trịnh
Xuân Tịnh (anh trai ông, sống tại Mỹ), mỗi người giữ một nửa quyền sở hữu với
các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Bản quyền có thời hạn đến hết 50 năm sau ngày
ông qua đời.
Thơ & vẽ
Ông làm thơ ít trong những lúc ngẫu hứng, hiện nay còn
để lại một số bài thơ tự sáng tác, và các bản dịch phỏng như trong tập Hán tự
hài cú của Ngô Văn Tao, hay các bài thơ vui, thơ chơi.
Bên cạnh âm nhạc, Trịnh Công Sơn để lại khá nhiều tác
phẩm hội họa, bút tích. Các tác phẩm hội họa của ông đã được triển lãm tại Nhà
Hữu Nghị Tiệp Khắc - Việt Nam, từ ngày 14 tháng 1 năm 1989 đến 24 tháng 1 năm
1989 cùng với 2 họa sĩ Đinh Cường và Đỗ Quang Em, triển lãm tại nhà khách Ritz,
và Trang viên Con Nai Vàng, Thủ Đức, từ ngày 15 tháng 12 năm 1990 đến 20 tháng
1 năm 1991 cùng với 2 họa sĩ Trịnh Cung và Đỗ Quang Em.
Một số trong đó hiện còn được lưu giữ và trưng bày tại
Hội Ngộ Quán.
Danh sách các bài hát
Cho đến năm 2017 theo như Nguyễn Đăng Chương, Giám đốc
Sở Biểu diễn nghệ thuật của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, có 70 bài hát của
Trịnh Công Sơn được phép trình diễn trước công chúng. Bài hát mới nhất vừa được
phép, là Nối vòng tay lớn, vào ngày 12 tháng 4 năm 2017.
Danh sách một
số bài hát
1.
Ai ngoài
cánh cửa? (Who is outside?)
2.
Bà mẹ Ô Lý
(O Ly's mother)
3.
Bay đi thầm
lặng
4.
Bằng lòng
5.
Bài ca dành
cho những xác người (Ballad to the dead)
6.
Bên đời hiu
quạnh
7.
Biển nghìn
thu ở lại
8.
Biển nhớ
(You said goodbye)
9.
Biển sáng
(Bright sea) (sáng tác cùng với Phạm Trọng Cầu)
10. Biết đâu nguồn cội (Unbeknownst to me, the root)
11. Bống bồng ơi
12. Bống không là Bống
13. Bốn mùa thay lá (Four seasons of change)
14. Ca dao mẹ (A mother's lament)
15. Cánh đồng hoà bình (Fields of peace)
16. Cát bụi (Sand and dust)
17. Chiếc lá thu phai (The withering fall leaf)
18. Chiều một mình qua phố (An afternoon promenade of
solitude)
19. Chìm dưới cơn mưa (Buried under the rain)
20. Cho đời chút ơn (Grace onto life)
21. Cho một người nằm xuống (Song for the fallen)
22. Chưa mất niềm tin (Still believing)
23. Chưa mòn giấc mơ (A dream that hasn't been eroded)
24. Con mắt còn lại (The remaining eye)
25. Có một dòng sông đã qua đời (A river that died)
26. Có nghe đời nghiêng (Tilting life)
27. Còn ai với ai / Còn tôi với ai
28. Còn mãi tìm nhau (Forever seeking)
29. Còn có bao ngày (Not many days are left)
30. Còn thấy mặt người
31. Còn tuổi nào cho em
32. Cỏ xót xa đưa (Sway sorrow weeds)
33. Cúi xuống thật gần (Bend down, come closer)
34. Cũng sẽ chìm trôi (Eventual withering)
35. Cuối cùng cho một tình yêu (The end of a romance)
36. Dân ta vẫn sống (We're still alive)
37. Dấu chân địa đàng / Tiếng hát dạ lan (Footprints in
Eden / The singing of the Hyacinth)
38. Diễm xưa (Over the old tower)
39. Du mục (Nomad)
40. Dựng lại người, dựng lại nhà (People rebuilt, houses
rebuilt)
41. Đại bác ru đêm (A Lullaby of Cannons for the Night)
42. Để gió cuốn đi (Gone with the wind)
43. Đêm / Đêm Hồng (Night / Pink Night)
44. Đêm bây giờ, đêm mai (This night, tomorrow night)
45. Đêm thấy ta là thác đổ (One night I saw me as a
waterfall)
46. Đi mãi trên đường (Never-ending road)
47. Đóa hoa vô thường (Evanescent bloom)
48. Đoản khúc thu Hà Nội (Ditty for Hanoi's autumn)
49. Đợi có một ngày (Waiting for the day)
50. Đời cho ta thế
51. Đôi mắt nào mở ra (Open your eyes)
52. Đồng dao hoà bình (The rhymth of Peace)
53. Đừng mong ai, đừng nghi ngại
54. Em còn nhớ hay em đã quên (Do you still remember or
have you forgotten?)
55. Em đã cho tôi bầu trời (The heaven you have brought to
me)
56. Em đi bỏ lại con đường
57. Em đi trong chiều (In the evening you walk)
58. Em hãy ngủ đi (Love, you should sleep)
59. Em là hoa hồng nhỏ (You are a little rose)
60. Gần như niềm tuyệt vọng (A resemblance of despair)
61. Gia tài của mẹ (A mother's legacy)
62. Giọt lệ thiên thu (A tear of eternity)
63. Giọt nước mắt cho quê hương (A tear for my homeland)
64. Gọi tên bốn mùa (Conjure up the four seasons)
65. Góp lá mùa xuân
66. Hạ trắng (White summer)
67. Hai mươi mùa nắng lạ (Twenty seasons of strange
sunlight)
68. Hành hương trên đồi cao / Người đi hành hương trên đỉnh
cao (Pilgrimage)
69. Hát trên những xác người (Singing over the dead), đừng
nhầm với "Bài ca dành cho những xác người"
70. Hãy cố chờ (Let's try to wait)
71. Hãy cứ vui như mọi ngày (Just be happy like any other
day)
72. Hãy khóc đi em (Just cry, my dear)
73. Hãy nhìn lại (Just look back and see)
74. Hãy sống giùm tôi (Just live my life for me)
75. Hãy yêu nhau đi (Give me your hand)
76. Hoà bình là cơm áo (Peace means weal)
77. Hoa vàng mấy độ (The flowers that were once golden
bright)
78. Hoa xuân ca (Spring flowers song)
79. Hôm nay tôi nghe (Today I heard)
80. Huế - Sài Gòn - Hà Nội (Hue - Saigon - Hanoi)
81. Huyền thoại mẹ (Legendary mother)
82. Khăn quàng thắp sáng bình minh
83. Khói trời mênh mông
84. Lại gần với nhau (Closer)
85. Lặng lẽ nơi này (So silent here)
86. Lời buồn thánh
87. Lời mẹ ru (A mother's lullaby)
88. Lời ở phố về
89. Lời ru đêm (Night's lullaby)
90. Lời thiên thu gọi (Eternity's calling)
91. Mẹ bỏ con đi / Đường xa vạn dặm
92. Mẹ đi vắng
93. Môi hồng đào (Rosy Lips)
94. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui (Each day I choose joy)
95. Một buổi sáng mùa xuân (A spring morning)
96. Một cõi đi về (Circle of life)
97. Một lần thoáng có
98. Một ngày như mọi ngày (A day just like any other day)
99. Một ngày vinh quang (A day of glory)
100. Mùa áo quan
(The season of coffins)
101.
Mùa hè đến
(The summer's arrived)
102.
Mùa phục hồi
/ Xin chờ những sớm mai (The season of recuperation / Waiting for tomorrow
mornings)
103.
Mưa hồng
(Pink rain)
104.
Mừng sinh
nhật (Happy birtday)
105.
Nắng thuỷ
tinh (Crystal sunlight)
106.
Này em cớ
nhớ (Do you remember?)
107.
Ngẫu nhiên
(Perchance)
108.
Ngày dài
trên quê hương (A long day in the Motherland)
109.
Ngày mai
đây bình yên (Peaceful future)
110.
Ngày về
(Returning home)
111.
Ngày xưa
khi còn bé (Childhood days)
112.
Nghe những
tàn phai (The sound of evanescing)
113.
Nghe tiếng
muôn trùng
114.
Ngủ đi con
(Go to sleep, my child)
115.
Ngụ ngôn
mùa đông (A winter fable)
116.
Người con
gái Việt Nam da vàng (A yellow-skinned Vietnamese girl)
117.
Người già
em bé (An old person, a baby)
118.
Người về bỗng
nhớ (Now i can see)
119.
Nguyệt ca
(The lunar song)
120.
Nhìn những
mùa thu đi (Watch the autumns go by)
121.
Nhớ mùa thu
Hà Nội (Missing Hanoi's autumn)
122.
Như cánh vạc
bay (Like a flying crane)
123.
Như chim ưu
phiền (Anguishing bird)
124.
Như một lời
chia tay (Words of good-bye)
125.
Như một vết
thương (A wound)
126.
Như tiếng
thở dài (As a deep sigh)
127.
Những con mắt
trần gian (The earthly eyes)
128.
Những giọt
máu trổ bông (The blooming of the blood drops)
129.
Níu tay
nghìn trùng (Grabbing hands over a thousand miles)
130.
Nối vòng
tay lớn (Circle of unity)
131.
Ở trọ / Cõi
tạm (Temporary stay)
132.
Phôi pha
(Withering)
133.
Phúc âm buồn
(Dolorous Gospel)
134.
Quê hương
đau nặng (Motherland in pain)
135.
Quỳnh hương
(Scent of the ephemeral bloom)
136.
Ra đồng giữa
ngọ
137.
Rồi như đá
ngây ngô (Not gone at all)
138.
Rơi lệ ru
người
139.
Ru đời đã mất
(Lullaby for a lost life)
140.
Ru đời đi
nhé (Lullaby to life)
141.
Ru em
(Lullaby for you)
142.
Ru em từng
ngón xuân nồng / Ru mãi ngàn năm (Eternal lullaby)
143.
Ru ta ngậm
ngùi / Môi nào hãy còn thơm (Lullaby for a sorrowful me)
144.
Ru tình
(Lullaby for love)
145.
Rừng xưa đã
khép (Your old woods are closed)
146.
Sao mắt mẹ
chưa vui?
147.
Sẽ còn ai
(Who will remain?)
148.
Sóng về đâu
(To where the waves depart)
149.
Ta đi dựng
cờ
150.
Tạ ơn
(Thanksgiving)
151.
Ta phải thấy
mặt trời (We must be able to see the Sun)
152.
Ta quyết phải
sống (We have to survive & live)
153.
Ta thấy gì
đêm nay (What have we seen tonight?)
154.
Thuở Bống
là người (The time when Bong was in human form)
155.
Thiên sứ
bâng khuâng (thơ Trịnh Cung)
156.
Thương một
người (Loving someone)
157.
Tiến thoái
lưỡng nan (All ways closed off)
158.
Tiếng ve gọi
hè
159.
Tình ca của
người mất trí ("Ballad of an insane person" hay "Love song of a
deranged woman")
160.
Tình khúc
Ơ-bai
161.
Tình nhớ
(Memory)
162.
Tình sầu
(Sorrowful love)
163.
Tình xa
(Distant love)
164.
Tình xót xa
vừa
165.
Tình yêu
tìm thấy
166.
Tôi đã mất
(I have lost)
167.
Tôi đang lắng
nghe / Im lặng thở dài (I am listening / Quiet sigh)
168.
Tôi ơi đừng
tuyệt vọng (Despair not, dear me)
169.
Tôi ru em
ngủ (My lullaby for you)
170.
Tôi sẽ đi
thăm (I shall visit)
171.
Tôi sẽ nhớ
(I shall remember)
172.
Tôi tìm tôi
/ Tôi là ai? (I search for myself / Who am I?)
173.
Trong nỗi
đau tình cờ
174.
Tự tình
khúc (The lyrist)
175.
Từng ngày
qua (Everyday through)
176.
Tuổi đá buồn
(Stone's age of despair)
177.
Tuổi đời
mênh mông
178.
Tuổi trẻ Việt
Nam (Vietnamese Youths)
179.
Tưởng rằng
đã quên (Thought that I have forgotten)
180.
Ướt mi
("Misty eyes" hay "Tearing lashes")
181.
Vẫn có em
bên đời (I still have you in my life)
182.
Vẫn nhớ cuộc
đời
183.
Vàng phai
trước ngõ
184.
Về trong suối
nguồn (Back to the fountainhead)
185.
Về thăm mái
trường xưa (Revisiting the old school)
186.
Vết lăn trầm
187.
Vì bé ngoan
188.
Vì tôi cần
thấy em yêu đời
189.
Vườn xưa
(Garden of the past)
190.
Xa dấu mặt
trời (Far from the sun)
191.
Xanh lòng
phai tàn
192.
Xin cho tôi
(Please give me)
193.
Xin mặt trời
ngủ yên (Please let the sun sleep)
194.
Xin trả nợ
người
195.
Yêu dấu tan
theo (Fading love)
Phát ngôn, bút tích
Bên cạnh âm nhạc, ông còn để lại khá nhiều phát ngôn về
quan điểm chính trị cũng như những dòng văn suy niệm về thân phận, cuộc sống.
“Tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, rất vui mừng
và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em văn nghệ sĩ ở miền nam Việt
Nam này. Hôm nay là cái ngày mơ ước của tất cả chúng ta, đó là ngày mà chúng ta
giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này.
Cũng như những
điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống nhất thì hôm nay
chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó.
Tôi yêu cầu
các văn nghệ sĩ cách mạng miền nam Việt Nam hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách
mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản
bội đất nước!”
“Phạm Duy bàng bạc trong tất cả đời sống
âm nhạc”.
“Sống giữa đời này chỉ có thân phận và
tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào
nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời.”
“Khi bạn hát một bản tình ca là bạn đang
muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi đừng e ngại. Dù hạnh phúc hay dở
dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi.”
“Nếu có người nào đó thách thức tôi một
trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà đánh đố. Tôi e, không ai
dám tự xưng mình am tường hết nội dung phong phú và quá phức tạp của tình yêu.
Có người yêu thì hạnh phúc, có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh
phúc thì con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con người không thể
sống mà không yêu.”
“Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi
và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng
vinh quang chỉ là điều dối trá. Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọng
và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp
như một bông hoa...”
“Mỗi một con người vì ngại chết mà muốn
sống. Mỗi một con người vì sợ mất tình mà giữ mãi một lòng nhớ nhung. Cuối cùng
thì lòng yêu thương cuộc sống cũng không giữ lại đời người. Cuối cùng thì tình
yêu không giữ được người mình yêu...”
Đời tư
Suốt đời,
Trịnh Công Sơn có nhiều mối tình nhưng không chính thức kết hôn với ai, và cũng
chưa chính thức công nhận là có con.
Trịnh Công Sơn không có vợ, nhưng ông có những mối
tình đẹp và lãng mạn không chỉ với những phụ nữ ở Việt Nam mà ở cả ngoại quốc.
Theo lời của người em gái Hoàng Diệu, lý do lớn nhất ông không kết hôn là:
"Anh Sơn luôn ngại làm phiền người sẽ ở cùng phòng với mình, bởi anh cực kỳ
ít ăn và ít ngủ và có giờ giấc làm việc chẳng giống ai. Anh thường xuyên thức dậy
giữa khuya khi nghĩ ra được ý nào đó và ngồi viết lại hoặc vẽ đến sáng. Bởi vậy
mà khi lần đầu tiên có ý định cưới vợ - một Việt kiều Pháp (sáu tháng ở Pháp,
sáu tháng ở Việt Nam), anh đã có những dự định rất rõ ràng: Anh và chị sẽ có
hai căn phòng nằm cạnh nhau chứ không phải lúc nào cũng ở chung phòng để có thể
giữ được sự riêng tư cần thiết." Và rồi, vì nhiều lý do, mối duyên ấy không
thành.
Mối tình đầu, thực chất chỉ là 1 tình bạn đẹp của ông
là với ca sĩ Khánh Ly, rồi sau đó với một cô gái Nhật Bản làm luận án tiến sĩ về
âm nhạc Trịnh Công Sơn. Hai người cũng từng tiến xa đến một kế hoạch đám cưới,
nhưng rồi cũng không thành vì Trịnh Công Sơn không chấp nhận một vài nguyên tắc
của gia đình người Nhật đưa ra khi anh về làm rể chẳng hạn như quỳ lạy ông bà đại
sứ Nhật đại diện cho cha mẹ cô dâu khi làm lễ kết hôn. Và Dao Ánh (người trong
mộng của ông từ năm 1964 đến năm 1967); em ruột của bà Ngô Vũ Bích Diễm. Đây
chính là "bóng hồng" trong nhạc phẩm "Diễm xưa". Trước khi yêu Dao Ánh, Trịnh Công Sơn từng dành
tình cảm với cô chị gái Bích Diễm nhưng tình cảm ấy không thành.
Mối tình thứ tư của ông là với ca sĩ Hồng Nhung, và mối
tình thứ năm của ông là với VA..., khi ông mất VA là một trong số các người thân
ở bên cạnh ông.
Những năm cuối cùng của cuộc đời, niềm say mê lớn nhất,
Trịnh Công Sơn gần như dành hết cho ca sĩ Hồng Nhung mà theo ông là "Một người quá gần gũi không biết phải gọi
là ai!"... Với Hồng Nhung, tâm hồn Trịnh gần như trẻ lại, khiến bước
chân ông trở nên bối rối, ngập ngừng với buổi hẹn ban đầu.
Một người khác cũng từ Hà Nội kể lại tình cảm của cô
dành cho Trịnh Công Sơn và của Trịnh dành cho cô lần đầu gặp mặt: "Lần đầu tiên đứng trước nhau, cả tôi và anh
Sơn đều run. Tôi run vì quá trẻ và Sơn run vì anh quá... già!"
Hoàng Anh, một người được cho là người yêu của Trịnh
Công Sơn nói về tình yêu đối với ông: "Hiện tôi vẫn để ảnh tưởng nhớ Trịnh
Công Sơn trong phòng ngủ, nhưng chồng tôi không bao giờ thắc mắc, mà luôn tôn
trọng thế giới riêng của tôi"'.
Tình yêu của Trịnh Công Sơn dành cho nhiều phụ nữ trẻ,
đẹp và nổi tiếng, họ yêu ông say đắm, khi ông mất có người còn xin gia đình cho
được để tang ông, nhưng ông không sống khăng khít với một phụ nữ nào. Tài năng
của ông luôn liên tục thăng hoa, ngoài âm nhạc ông còn đóng phim, hội họa. Nhưng
ông nhìn nhận cuộc đời và dành tình cảm cho đời một cách rất giản đơn với không
hề tham vọng, ông nói một cách thản nhiên về cuộc đời: Cái chết chẳng qua cũng
chỉ là một sự đùa cợt sau cùng của cuộc sống.
Ca sĩ biểu
diễn
Tên tuổi gắn nhiều nhất với những bài hát nhạc Trịnh
Công Sơn là Khánh Ly. Khánh Ly, ban đầu là một ca sĩ ít tên tuổi tại Đà Lạt,
bén duyên với nhạc Trịnh trong một dịp tình cờ, để rồi từ đó về sau đã thể hiện
hầu hết những ca khúc của Trịnh Công Sơn, để rồi được cho là người thành công
nhất.
Nhưng Khánh Ly không phải người đầu tiên hát nhạc Trịnh,
trước đó Trịnh Công Sơn đã mời những tên tuổi lẫy lừng bấy giờ là Thanh Thúy,
Hà Thanh, Lệ Thu và cả danh ca Thái Thanh giới thiệu những sáng tác đầu tay của
mình ra công chúng, tuy vậy cuối cùng ông lại chọn Khánh Ly, người cũng đã vụt
lên thành ngôi sao sáng sau khi thể hiện những bản tình ca buồn bã thâm trầm và
dòng nhạc phản chiến mạnh mẽ của Trịnh Công Sơn bằng chất giọng khàn đục lạ
lùng.
Ngoài Khánh Ly, nhiều ca sĩ hát nhạc Trịnh Công Sơn
cũng được đánh giá cao như Lệ Thu, Thái Thanh, Ngọc Lan, Lan Ngọc. Giọng nam
thì có Tuấn Ngọc và sau này là Quang Dũng. Tuấn Ngọc tuy không chuyên về nhạc
Trịnh nhưng được Trịnh Công Sơn đánh giá cao khi hát nhạc của ông. Cuối cùng phải
kể đến giọng hát của Toàn Nguyễn (nhiều người nhầm lẫn giọng ca Toàn Nguyễn tên
thật là Nguyễn Văn Toàn thành nhà thơ/nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn) khi ông thực hiện
album 11 Ca Khúc Trịnh Công Sơn vào năm 1988. Toàn Nguyễn có 2 quê Nam Định và
Hải Phòng, trước đây anh có phòng trà ở Sài Gòn, giờ lập nghiệp với phòng trà
riêng của mình ở Vũng Tàu. Toàn Nguyễn hát nhạc Trịnh bằng giọng nhẹ nhàng, tâm
sự và ngón đàn guitar acoustic thổn thức rất được giới mộ điệu ưa thích.
Ở Việt Nam giai đoạn sau 1975 cũng có những người hát
nhạc Trịnh Công Sơn thành công như Trịnh Vĩnh Trinh (Em gái nhạc sĩ) và đặc biệt
phải kể đến Hồng Nhung hát nhạc Trịnh theo phong cách hoàn toàn mới và được
khán giả đón nhận. Ngoài ra, còn có Cẩm Vân, Ánh Tuyết, Bảo Yến, Trần Thu Hà và
Hồng Hạnh.
Cũng nên kể đến những ca sĩ muốn thử nghiệm nhạc Trịnh
Công Sơn bằng phong cách "mới" và "lạ", để rồi bị khán giả
phản đối nặng nề, tiêu biểu là Thanh Lam, Mỹ Tâm, Đàm Vĩnh Hưng. Ngoài ra còn
có Thu Phương, Phương Thanh, Mỹ Lệ, Mỹ Linh, Trần Thu Hà, Đức Tuấn, Ngô Quang
Vinh, Lệ Quyên, Hiền Thục, Hồ Trung Dũng, Đồng Lan, Hà Lê thu âm và làm mới lại
theo các phong cách khác nhau. Bản thân nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng tự mình thể
hiện và thu âm một số ca khúc và được khán thính giả yêu thích. Tuy nhiên, dù
có rất nhiều các nghệ sĩ thể hiện nhạc Trịnh, nhưng thành công vẫn là Khánh Ly
và đại diện tiêu biểu ở thế hệ sau là Hồng Nhung thể hiện.
Nhận xét
“Ngày xưa
tôi rất quý anh Trịnh Công Sơn và ngược lại. Tôi yêu sự chân thành, dễ thương
và trân trọng, tài năng của con người đó. Mặc dù, âm nhạc của anh ấy không phải
là cái gì quá ghê gớm nhưng có mấy ai mà có cả đủ tâm lẫn tài như thế.” — Phú Quang
“Lời ca
trong ca khúc Trịnh Công Sơn đã tạo nên tên tuổi Trịnh Công Sơn” — Bửu Ý
“Tình yêu
trong nhạc của anh là những cảm xúc dữ dội như trái phá con tim mù lòa, như nỗi
chết cơn đau thật dài, như vết thương mở rộng... Cuộc đời là hư vô chủ nghĩa,
con người sống trong cảnh Chúa, Phật bỏ loài người. Cuộc đời còn là đám đông
nhưng cũng là quán không. Con người là cát bụi mệt nhoài, bao nhiêu năm làm kiếp
con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi... Tất cả nói lên sự muộn phiền,
đau đớn... Buồn tủi cho thân phận con người nên nhánh cỏ cũng xót xa, phiến đá
cũng ưu phiền, và chỉ còn những mưa và mưa để xoa dịu vết thương mở lớn!
(...)... Trịnh Công Sơn nói lên nỗi bàng hoàng của con người khi thấy cái chết
nằm ngay trong sự sống (...) Nguyễn Đình Toàn gọi nhạc Trịnh Công Sơn là những
bản tình ca không có hạnh phúc, những bài hát cho quê hương đổ vỡ. Cũng là phản
ứng của người đau đớn trước hoàn cảnh đất nước, nhưng nó là sự chịu đựng và chết
lịm hơn là sự nổi sùng và chửi bới. (...)...Về phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh
Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù
hợp với tiếng thở dài của thời đại. Bài hát chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm
theo, nếu hòa âm phối khí rườm rà thì không hợp với những bài hát soạn theo thể
ballade này.” — Phạm Duy, 1991
“Tôi gọi Trịnh
Công Sơn là người của thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến
độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ... Trong âm nhạc của Sơn, ta
không thấy dấu vết của âm nhạc theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn
nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra” — Văn Cao
“..., tình
ca Trịnh Công Sơn không hẳn chỉ là 1 bông hồng dâng tặng – nó chứa đựng tất cả
tâm trạng lo âu của con người nhìn ra thế giới hiện đại” — Hoàng Phủ Ngọc Tường, 1991
“Trịnh Công
Sơn là nhạc sĩ có nhiều người hâm mộ nhất. Đi đến đâu, tôi cũng thấy người ta
hát ca khúc của anh. Nhạc Trịnh không chỉ ngự trị khắp mọi xó xỉnh của xứ Việt
này mà còn len lỏi đến tận những ngóc ngách sâu thẳm nhất trong cõi tinh thần của
người Việt ở Hải ngoại. Dường như ở đâu, Trịnh Công Sơn cũng có người yêu mến” — Trần Đăng Khoa
“Anh yêu nhạc
Trịnh Công Sơn, như thế có nghĩa anh là người tử tế...
Nhạc anh
Sơn rất đặc biệt. Bài nào cũng chỉ phất phơ có mấy nét thôi, cứ như là nhạc của
trẻ con ấy. Nhưng nghe là nhớ ngay. Trịnh Công Sơn đã đạt được đến độ cao nhất
của nghệ thuật. Đó là sự giản dị... Người hát hay nhất nhạc Trịnh chính là Trịnh
Công Sơn. Sau Trịnh mới đến Khánh Ly. Sau Khánh Ly là không còn ai nữa. Hồng
Nhung chỉ hát tàm tạm được một đôi bài....
...Mặc dù
nhạc Cách mạng của các anh rất hay. Hầu như bài nào cũng hay. Khoẻ khoắn, hùng
tráng. Nhưng đó là nhạc hội hè, nhạc vui. Nhạc cho tất cả mọi người. Hầu hết nhạc
sĩ các anh đều viết cho đám đông. Người ta hát khi vui, hát ở chỗ đông người.
Còn nhạc anh Sơn là nhạc chỉ dành cho một người. Khi nào buồn, khi nào cô đơn đến
tuyệt vọng mà không còn biết bấu víu vào đâu nữa, người ta tìm về với Trịnh.
Trịnh sẽ đón họ, nâng đỡ an ủi họ. Vì thế, tôi mới bảo Trịnh Công Sơn là một nửa
âm nhạc Việt Nam....
...Tôi rất
yêu nhạc Trịnh. Yêu như một tín đồ của anh ấy. Nhưng cũng phải thành thật mà
nói rằng, nhạc Trịnh nghe lẻ từng bài thì hay. Nhưng nghe cả một cuộn băng thì
lại thấy mệt vì đơn điệu. Ông Văn Cao của các anh đa dạng hơn nhiều, phong phú
hơn nhiều, mặc dù so với Trịnh Công Sơn, ông ấy viết rất ít...” — Frank Gerke
Những đóng
góp cho điện ảnh
Diễn viên: phim Đất
khổ (1974) của đạo diễn Hà Thúc Cần
Viết nhạc
và bài hát cho phim:
1.
Cánh đồng
hoang (1979) của đạo diễn Nguyễn Hồng Sến, kịch bản Nguyễn Quang Sáng
2.
Ngoại ô
(1987) (cùng nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu) của đạo diễn Lê Văn Duy
Nhạc và bài
hát được sử dụng trong phim
1.
Tội lỗi cuối
cùng (1980) của đạo diễn Trần Phương, nghệ sĩ Phương Thanh đóng vai Hiền cá sấu:
bài "Đời gọi em biết bao lần"
2.
Cho cả ngày
mai (1981) của đạo diễn Long Vân: bài "Em là bông hồng nhỏ"
3.
Bãi biển đời
người (1983) của đạo diễn Hải Ninh: bài "Quê hương"
4.
Thị xã
trong tầm tay (1983) của đạo diễn Đặng Nhật Minh,[75] bài hát nền, phổ thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường
5.
Cho đến bao
giờ (1985) của đạo diễn Huy Thành
6.
Cầu Rạch
Chiếc (1986) của đạo diễn Hoàng Lê
7.
Cô gái trên
sông (1987) của đạo diễn Đặng Nhật Minh, cùng Phạm Trọng Cầu
8.
Mùa hè chiều
thẳng đứng (2000) của đạo diễn Trần Anh Hùng: "Cuối cùng cho một tình
yêu", "Nắng thủy tinh", "Rừng xưa đã khép"
9.
Áo lụa Hà
Đông (2006) của Phước Sang Film, đạo diễn Lưu Huỳnh: "Bài ca dành cho những
xác người"
10. Công chúa teen và ngũ hổ tướng (2010) của đạo diễn Lê
Lộc (bài "Để gió cuốn đi")
11. Em là bà nội của anh (2015) bài "Còn tuổi nào cho
em"
Phim về Trịnh
Công Sơn:
1.
Em còn nhớ
hay em đã quên (1992) của đạo diễn Nguyễn Hữu Phần và Phi Tiến Sơn, với sự tham
gia của cố diễn viên Lê Công Tuấn Anh vai Quang Sơn (Trịnh Công Sơn thời trẻ).
2.
Trịnh Công
Sơn - sống và yêu của đạo diễn Lê Dân, phim không được hoàn thành
3.
Em và Trịnh
(2022) của đạo diễn Phan Gia Nhật Linh. Phim kể về cuộc đời Trịnh Công Sơn
trong nhiều thập niên. Hai diễn viên Avin Lu và Trần Lực đóng vai nhạc sĩ, lần
lượt ở thời trẻ và trung niên.
Giải thưởng và tôn vinh
Giải thưởng
·
Năm 1972,
ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng (phát hành trên 2 triệu đĩa) ở Nhật Bản với bài
"Ngủ đi con" (trong Ca khúc da vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh
Ly. Năm 1979, hãng đĩa Nippon Columbia mời Khánh Ly thu băng lần thứ hai các nhạc
phẩm của ông, cũng vào năm này ca khúc "Ngủ đi con" trở thành một bản
hit ở Nhật Bản.
·
Giải thưởng
cho Bài hát hay nhất trong phim "Tội lỗi cuối cùng"
·
Giải Nhất của
cuộc thi "Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh" với bài
"Em ở nông trường, em ra biên giới"
·
Giải Nhất
cuộc thi "Hai mươi năm sau" với bài "Hai mươi mùa nắng lạ".
·
Năm 1997
ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc Sĩ cho một chuỗi bài hát: "Xin trả nợ
người", "Sóng về đâu", "Em đi bỏ lại con đường"
·
Năm 2004,
Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới được trao cho ông vì "lý tưởng hòa
bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho nhân loại".
Tôn vinh
Trịnh Công
Sơn có tên trong từ điển bách khoa Pháp Les Million.
·
Trong Lễ
trao giải Làn sóng xanh năm 2005, 10 ca sĩ nổi tiếng của Việt Nam thực hiện
Liên khúc Trịnh Công Sơn để tôn vinh ông và kỉ niệm 5 năm ngày mất của nhạc sĩ
này (2006).
·
Trong cuộc
họp chiều 17 tháng 3 năm 2011, Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã chính
thức thông qua việc đặt tên của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho con đường dài 600
mét, rộng 11 mét lát nhựa mới mở ven sông Hương thuộc phường Phú Cát, thành phố
Huế.
·
Năm 2015, Hội
đồng nhân dân thành phố Hà Nội quyết định đặt tên của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
cho một tuyến phố dài 900m, rộng 9,5 – 12,5 m từ ngã ba ngõ 612 đường Lạc Long
Quân (cạnh công viên Hồ Tây) đến đường Âu Cơ cạnh trường THPT Phan Chu Trinh
(sau trở thành tuyến phố đi bộ) thuộc địa bàn phường Nhật Tân, quận Tây Hồ.
·
Ở thành phố
Huế – quê hương ông cũng có tên đường ''Trịnh Công Sơn''. Tại TP.HCM cũng có một
con đường nằm trong khu nhà cao cấp Gia Hòa ở thành phố Thủ Đức (Quận 9 cũ)
mang tên ông.
·
Ngày 28
tháng 2 năm 2019, Trịnh Công Sơn trở thành nhân vật xuất hiện trên trang chủ tiếng
Việt của công cụ tìm kiếm phổ biến nhất thế giới Google nhân dịp sinh nhật lần
thứ 80 của ông. Đây là lần đầu tiên Google Doodle vinh danh một người Việt Nam
(người Việt thứ hai là họa sĩ Bùi Xuân Phái). Một số tranh của ông được đưa lên
lịch 2019.