28 tháng 2 2020
Sir
John Tenniel - Danh hoạ nổi tiếng người Anh cách đây 2 thế kỷ
Sir John Tenniel (28/2/1820 – 25/2/1914) là một họa
sĩ biếm họa người Anh và họa sĩ truyện tranh chính trị nổi bật trong nửa sau của
thế kỷ 19 và được phong tước hiệp sĩ vì những thành tựu nghệ thuật của mình vào
năm 1893.
Tenniel được nhớ đặc biệt là khi vẽ tranh biếm họa
chính trị chủ yếu cho tạp chí Punch trong hơn 50 năm, và cho hình minh họa của
mình để Lewis Carroll 's Adventures của Alice in Wonderland (1865) và Qua
Nhìn-Glass, và những gì Alice tìm thấy ở đó (1871).
Sir John Tenniel - Khiếm khuyết tạo ra tạo ra đột phá nghệ thuật
Sir John Tenniel được sinh ra vào
ngày này cách đây 2 thế kỷ ở Bayswater , Tây London, đến John Baptist Tenniel,
một bậc thầy về đấu kiếm và khiêu vũ của dòng dõi Huguenot, và Eliza Maria
Tenniel. Gia đình John Tenniel có năm anh chị em.
Sir John Tenniel là một người trầm tính và sống
nội tâm, cả khi còn là một cậu bé và một người trưởng thành. Ông bằng lòng đứng
vững khỏi ánh đèn sân khấu và dường như không bị ảnh hưởng bởi sự cạnh tranh
hay thay đổi.
Sir John Tenniel với chân dung tự hoạ năm 1889. Ảnh: Wikipedia
Nhà viết tiểu sử của ông Rodney Engen đã
viết rằng "cuộc đời và sự nghiệp của Tenniel là của một người đàn ông tối
thượng bên ngoài, sống trên bờ vực của sự tôn trọng".
Vào năm 1840, Tenniel trong khi luyện tập đấu
kiếm với cha mình, đã nhận được một vết thương nghiêm trọng từ lưỡi kiếm của
cha mình. Trong những năm sau đó, Tenniel dần mất đi thị lực ở mắt phải; Ông đã
không bao giờ nói với cha về mức độ nghiêm trọng của vết thương, vì không muốn
làm cha mình buồn thêm.
Mặc dù có xu hướng nghệ thuật hiện đại, Tenniel
đã được biết đến và đánh giá cao như một người hài hước và sự đồng hành ban đầu
của ông với Charles Keene đã thúc đẩy và phát triển tài năng của ông về biếm
họa học thuật.
Sau những năm 1850, phong cách của Tenniel đã
được hiện đại hóa để kết hợp nhiều chi tiết hơn trong nền và trong các hình.
Việc đưa vào các chi tiết nền đã sửa chữa phần dàn dựng tiếng Đức yếu trước đây
của ông.
Hình minh họa được thiết kế chính xác hơn của
Tenniel mô tả những khoảnh khắc cụ thể về thời gian, địa phương và từng nhân
vật thay vì chỉ là những cảnh tổng quát.
Ngoài sự thay đổi về tính đặc thù của nền tảng,
Tenniel còn phát triển mối quan tâm mới về các kiểu người, biểu cảm và cách thể
hiện cá nhân, một cái gì đó sẽ mang trong tranh minh họa về Wonderland của
Tenniel.
Được nhiều người gọi là sân khấu, đặc trưng của
phong cách Tenniel này có lẽ xuất phát từ mối quan tâm trước đây của ông về
biếm họa. Trong những năm đầu tiên của Tenniel trên Punch , anh đã phát triển
mối quan tâm của nghệ sĩ biếm họa này về sự độc đáo của con người và vạn vật,
gần như mang lại tính cách giống con người cho các vật thể trong môi trường.
Một sự thay đổi trong phong cách là những đường
bóng mờ của ông ấy. Chúng chuyển đổi từ các đường ngang cơ học sang nở mạnh
bằng tay, tăng cường đáng kể các khu vực tối hơn.
Sir John
Tenniel – Tác giả của trang tường ở Cung điện Westminster
Tác phẩm đầu tay trong sự nghiệp của Sir John Tenniel là Samuel
Carter Hall của The Book of British Ballads vào năm 1842. Trong khi tham gia
minh họa cuốn sách đầu tiên của mình, các cuộc thi khác nhau được diễn ra tại
London, như một cách thức mà chính phủ có thể chống lại ngày càng gia tăng của
phong cách Germanic Nazarenes và xu hướng quảng bá của trường nghệ thuật quốc
gia Anh.
Tenniel đã lên kế hoạch tham gia cuộc thi House
of Lords năm 1845 cùng các nghệ sĩ để giành cơ hội thiết kế trang trí tranh
tường của Cung điện Westminster mới.
Tranh sơn dầu của Sir John Tenniel.
Mặc dù bỏ lỡ thời hạn, ông đã gửi một bộ
phim hoạt hình dài 16 feet (4,9 m), An Allegory of Justice, tới một cuộc thi
thiết kế trang trí tranh tường mới ở Cung điện Westminster.
Vì điều này, ông đã nhận được 200 đô la phí bảo
hiểm và một khoản hoa hồng để vẽ một bức bích họa trong Hội trường chờ Thượng
viện (hay Hội trường của các nhà thơ) trong Nhà thờ của các vị lãnh chúa.
John Tenniel vẫn thông qua những hình ảnh châm
biếm, thường cực đoan và đôi khi của thế giới Anh chứng kiến những thay đổi sâu
rộng trong cải cách chính trị và xã hội.
Vào dịp Giáng sinh 1850, ông được mời bởi Đánh
dấu Lemon để điền vào vị trí của họa sĩ truyện tranh chung (với John Leech )
trên punch , sau khi được chọn vào sức mạnh của hình ảnh minh họa gần đây để
Aesop 's Fables.
Ông đã đóng góp bản vẽ đầu tiên của mình trong
bức thư đầu tiên xuất hiện trên p. 224, quyển XIX. Điều này được mang tên
"Lord Jack the Giant Killer" và cho thấy Lord John Russell tấn công
Hồng y Wiseman.
Năm 1861, Tenniel được đề nghị vị trí của John
Leech tại Punch, với tư cách là họa sĩ truyện tranh chính trị, nhưng ông vẫn
duy trì ý thức đứng đắn và kiềm chế trong các vấn đề chính trị và xã hội nóng
bỏng thời đó.
Sir John
Tenniel - cả cuộc đời nghệ thuật để giành cho Punch
Nhiệm vụ của Sir
John Tenniel là theo dõi các lựa chọn có chủ ý của các biên tập viên
ở Punch, người có lẽ đã lấy gợi ý của họ từ The Times và cũng sẽ cảm thấy những
lời đề nghị căng thẳng chính trị từ Nghị viện.
Sự bồn chồn trong các vấn đề của chủ nghĩa cấp
tiến của giai cấp công nhân, lao động, chiến tranh, kinh tế và các chủ đề quốc
gia khác là mục tiêu của Punch , từ đó giải quyết bản chất của các chủ đề của
Tenniel.
Phim hoạt hình của ông vào những năm 1860 đã phổ
biến một bức chân dung của người Ailen như một người phụ nữ, bừa bãi trong sự
thèm ăn của mình và giống như một con đười ươi về đặc điểm khuôn mặt và tư thế.
Ảnh bìa Tạp chí Punch được Sir John Tenniel thiết kế số ra năm 1882.
Nhiều phim hoạt hình chính trị của Tenniel
thể hiện thái độ thù địch mạnh mẽ với chủ nghĩa dân tộc Ailen, với người Fenian
và giải đấu Land được miêu tả là những kẻ vũ phu, giống như vượn, trong khi
"Hibernia" - nhân cách hóa của Ireland - được miêu tả là một cô gái
xinh đẹp, bất lực bị đe dọa bởi những "quái vật" như vậy và chuyển
sang bảo vệ một "chị gái" trong hình dạng của một Britannia mạnh mẽ,
bọc thép .
"Một trận đấu không cân sức", bản vẽ
của ông được xuất bản trong Punch vào ngày 8/10/1881, mô tả một sĩ quan cảnh
sát chiến đấu với một tên tội phạm chỉ với một cây dùi cui để bảo vệ, cố gắng
đưa ra một điểm cho công chúng rằng cần phải thay đổi phương pháp trị an.
Khi được xem xét tách biệt với các minh họa cuốn
sách mà anh đã làm theo thời gian, tác phẩm của Tenniel tại Punch , thể hiện
hàng thập kỷ quan điểm biên tập, thường gây tranh cãi và nhạy cảm về mặt xã
hội, đã được tạo ra để lặp lại tiếng nói của công chúng Anh.
Và Tenniel đã vẽ 2.165 phim hoạt hình cho Punch
một ấn phẩm tự do và hoạt động chính trị, phản ánh tâm trạng của công chúng
Victoria về những thay đổi xã hội tự do; do đó, Tenniel, trong phim hoạt hình
của mình, đại diện cho nhiều năm lương tâm của đa số người Anh.
Tenniel đã đóng góp khoảng 2.300 phim hoạt hình,
vô số bức vẽ nhỏ, nhiều phim hoạt hình hai trang cho Punchman Almanac và các
sản phẩm đặc biệt khác, và 250 thiết kế cho sách Pocket của Punch.
Đến năm 1866, ông có thể "tự chi mười đến
mười lăm đồng tiền vàng cho việc làm lại một phim hoạt hình Punch độc nhất dưới
dạng phác họa bút chì", cùng với mức lương khoảng 800 bảng Anh mỗi năm.
02 tháng 7 2019
ĐẶNG THÁI SƠN - NGHỆ SĨ DƯƠNG CẦM VIỆT NAM
ĐẶNG THÁI SƠN - NGHỆ SĨ DƯƠNG CẦM VIỆT NAM
Đặng Thái Sơn (sinh ngày 2 tháng 7 năm 1958 tại Hà Nội) là một nghệ sĩ dương cầm Canada gốc Việt. Ông nổi danh sau khi đoạt giải nhất cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ X (tháng 10 năm 1980) ở Warszawa (Ba Lan). Đó là lần đầu tiên một nghệ sĩ dương cầm châu Á đoạt giải nhất tại cuộc thi này.
Nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái Sơn
- Sinh: 2 tháng 7, 1958 (60 tuổi), Hà Nội
- Quốc tịch: Việt Nam - Canada
- Nghề nghiệp: Nghệ sĩ dương cầm
- Bố mẹ: Đặng Đình Hưng / Thái Thị Liên
- Đào tạo: Nhạc viện Hà Nội / Nhạc viện Quốc gia Tchaikovsky
- Giải thưởng: Giải I Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin (1980) / Nghệ sĩ nhân dân: Đợt 1 (1984)
TIỂU SỬ
Đặng Thái Sơn sinh ra trong gia đình có truyền thống nghệ thuật, cha là nhà thơ, nhạc sĩ Đặng Đình Hưng còn mẹ là nghệ sĩ piano Thái Thị Liên. Hai anh chị của ông là Đặng Hồng Quang (con riêng ông Hưng) và Trần Thu Hà (con riêng bà Liên) cũng đều đi theo nghiệp dương cầm. Từ bé, Đặng Thái Sơn học piano với mẹ.
Năm 1965, ông bắt đầu học nhạc tại Nhạc viện Hà Nội (lúc đó dời sang huyện Yên Dũng, thuộc tỉnh Hà Bắc cũ, trong địa phận tỉnh Bắc Giang ngày nay, cách Hà Nội 70 cây số). Không sống gần cha nhiều nhưng ông chịu ảnh hưởng từ cha rất lớn, các bản nhạc nổi tiếng của ông mang phong cách hơi hướng cổ điển.
SỰ NGHIỆP
Ông được nhạc sĩ dương cầm Isaac Katz khám phá vào năm 1974. Năm 1976, Đặng Thái Sơn được nhận vào học tại Nhạc viện Quốc gia Tchaikovsky ở Moskva, dưới sự hướng dẫn của Vladimir Natansonvà Dmitry Alexandrovitch Bashkirov. Tại cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ X (1980), Đặng Thái Sơn là một trong 3 thí sinh tới từ Nhạc viện Tchaikovsky. Hai thí sinh kia là Tatyana Shebanova (người Nga) (đoạt giải nhì) và Ivo Pogorelich (người Nam Tư). Cuộc thi này đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử cuộc thi piano Chopin không chỉ vì đây là lần đầu tiên một người châu Á đã đoạt giải nhất, mà còn vì vụ tai tiếng xảy ra với Ivo Pogorelich, người đã bị loại khỏi vòng 3 vì lối chơi khác thường. Việc loại Pogorelich đã khiến một ủy viên giám khảo nữ danh cầm Martha Argerich bỏ hội đồng giám khảo để phản đối sau khi tuyên bố bà "thấy xấu hổ vì làm ủy viên một hội đồng đã loại một thiên tài". Vụ Pogorelich đã phần nào làm lu mờ giải nhất Chopin năm đó. Sau khi đoạt giải, Đặng Thái Sơn quay lại Moskva học tiếp và tốt nghiệp Nhạc viện Tchaikovky năm 1983. Sau khi tốt nghiệp, ông nhận lời mời sang giảng dạy tại Nhạc viện Kunitachi tại Tokyo (Nhật Bản).
Kể từ khi đoạt giải Chopin, ông đã trình diễn hầu như ở tất cả các phòng hòa nhạc nổi tiếng như Lincoln Center (New York), Jordan Hall (Boston), Barbican Centre (Luân Đôn), Salle Pleyel (Paris), Herkulessaal (München), Musikverein (Wien), Concertgebouw (Amsterdam), Opera House Sydney(Sydney) và Suntory Hall (Tokyo). Ông đã tham gia các dàn nhạc lớn như Orchestre Symphonique de Montréal, BBC Philharmonic, Praha Symphony Orchestra, Moskva Philharmonic Orchestra cũng như Virtuosi of Moscow, Wiener KammerOrchester, Orkiestra Filharmonii Narodowej Warszawie và Sydney Symphony,... và đã thu âm tại Deutsche Grammophon, Melodia, Polskie Nagrania, CBS Sony và các hãng thu nhạc nổi tiếng khác.
VINH DANH
Năm 1984, Đặng Thái Sơn là một trong những nghệ sĩđầu tiên được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Khi đó, ông mới 26 tuổi, và là nghệ sĩ nhân dân trẻ nhất khi được trao tặng danh hiệu này từ trước đến nay.
Sau 10 năm sống ở Nga (1977-1987), ông dạy nhạc tại Kunitachi Music College (Tokyo, Nhật Bản). Năm 1991, ông định cư tại Montréal, Canada và dạy ở Đại học Montréal. Từ năm 1995, cùng với mẹ, Đặng Thái Sơn đã nhập quốc tịch Canada. Tháng 10 năm 1999, ông đã dạy một khóa nhạc chuyên nghiệp ở Berlincùng với Murray Perahia và Vladimir Davidovich Ashkenazy. Năm 1999, Đặng Thái Sơn là nghệ sĩ piano duy nhất không phải là người Ba Lan được mời đến dự buổi hòa nhạc nhân kỷ niệm 150 năm ngày mất của Frédéric Chopin. Từng là giám khảo trong nhiều cuộc thi âm nhạc, nhưng Đặng Thái Sơn cũng chính là người Á Đông đầu tiên được chọn vào ban giám khảo Concours Chopin năm 2005.
Những bài trình diễn của ông thường là những bài nhạc dương cầm của Frédéric Chopin, hay là của những nhạc sĩ trường phái lãng mạn và ấn tượng, cũng như những bài nhạc hòa tấu dương cầm của hầu như tất cả những nhà soạn nhạc nổi tiếng (Beethoven, Chopin, Schumann, Grieg, Mozart, Rachmaninov,...).
Tại Gala kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Chopin tháng 3 năm 2010, Đặng Thái Sơn là một trong 3 nghệ sĩ toàn cầu được chọn để biểu diễn (cùng Lý Vân Địch người Trung Quốc và Garrick Ohlsson người Mỹ).
HIỆN TẠI (2019)
Định cư tại Montreal, Canada từ năm 1991. Hiện nay, Đặng Thái Sơn vẫn đang giảng dạy tại Đại học Montréal. Ông còn tham gia nhiều hoạt động tại Ngavà Việt Nam: quyên góp tiền để ủng hộ xây dựng lại Nhạc viện Tchaikovsky vì bị hỏa hoạn; cùng một nhóm bạn người Nhật đã thành lập một quỹ từ thiệnchủ yếu giúp đỡ Nhạc viện Hà Nội; cũng từ quỹ từ thiện này, Đặng Thái Sơn kêu gọi Chính phủ Nhật hỗ trợ sách nhạc, đàn,... cho một số trường tại Việt Nam. Hàng năm, ông thường về Việt Nam để tham gia vào các buổi hòa nhạc lớn.
Đặng Thái Sơn (sinh ngày 2 tháng 7 năm 1958 tại Hà Nội) là một nghệ sĩ dương cầm Canada gốc Việt. Ông nổi danh sau khi đoạt giải nhất cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ X (tháng 10 năm 1980) ở Warszawa (Ba Lan). Đó là lần đầu tiên một nghệ sĩ dương cầm châu Á đoạt giải nhất tại cuộc thi này.
Nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái Sơn
- Sinh: 2 tháng 7, 1958 (60 tuổi), Hà Nội
- Quốc tịch: Việt Nam - Canada
- Nghề nghiệp: Nghệ sĩ dương cầm
- Bố mẹ: Đặng Đình Hưng / Thái Thị Liên
- Đào tạo: Nhạc viện Hà Nội / Nhạc viện Quốc gia Tchaikovsky
- Giải thưởng: Giải I Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin (1980) / Nghệ sĩ nhân dân: Đợt 1 (1984)
TIỂU SỬ
Đặng Thái Sơn sinh ra trong gia đình có truyền thống nghệ thuật, cha là nhà thơ, nhạc sĩ Đặng Đình Hưng còn mẹ là nghệ sĩ piano Thái Thị Liên. Hai anh chị của ông là Đặng Hồng Quang (con riêng ông Hưng) và Trần Thu Hà (con riêng bà Liên) cũng đều đi theo nghiệp dương cầm. Từ bé, Đặng Thái Sơn học piano với mẹ.
Năm 1965, ông bắt đầu học nhạc tại Nhạc viện Hà Nội (lúc đó dời sang huyện Yên Dũng, thuộc tỉnh Hà Bắc cũ, trong địa phận tỉnh Bắc Giang ngày nay, cách Hà Nội 70 cây số). Không sống gần cha nhiều nhưng ông chịu ảnh hưởng từ cha rất lớn, các bản nhạc nổi tiếng của ông mang phong cách hơi hướng cổ điển.
SỰ NGHIỆP
Ông được nhạc sĩ dương cầm Isaac Katz khám phá vào năm 1974. Năm 1976, Đặng Thái Sơn được nhận vào học tại Nhạc viện Quốc gia Tchaikovsky ở Moskva, dưới sự hướng dẫn của Vladimir Natansonvà Dmitry Alexandrovitch Bashkirov. Tại cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin lần thứ X (1980), Đặng Thái Sơn là một trong 3 thí sinh tới từ Nhạc viện Tchaikovsky. Hai thí sinh kia là Tatyana Shebanova (người Nga) (đoạt giải nhì) và Ivo Pogorelich (người Nam Tư). Cuộc thi này đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử cuộc thi piano Chopin không chỉ vì đây là lần đầu tiên một người châu Á đã đoạt giải nhất, mà còn vì vụ tai tiếng xảy ra với Ivo Pogorelich, người đã bị loại khỏi vòng 3 vì lối chơi khác thường. Việc loại Pogorelich đã khiến một ủy viên giám khảo nữ danh cầm Martha Argerich bỏ hội đồng giám khảo để phản đối sau khi tuyên bố bà "thấy xấu hổ vì làm ủy viên một hội đồng đã loại một thiên tài". Vụ Pogorelich đã phần nào làm lu mờ giải nhất Chopin năm đó. Sau khi đoạt giải, Đặng Thái Sơn quay lại Moskva học tiếp và tốt nghiệp Nhạc viện Tchaikovky năm 1983. Sau khi tốt nghiệp, ông nhận lời mời sang giảng dạy tại Nhạc viện Kunitachi tại Tokyo (Nhật Bản).
Kể từ khi đoạt giải Chopin, ông đã trình diễn hầu như ở tất cả các phòng hòa nhạc nổi tiếng như Lincoln Center (New York), Jordan Hall (Boston), Barbican Centre (Luân Đôn), Salle Pleyel (Paris), Herkulessaal (München), Musikverein (Wien), Concertgebouw (Amsterdam), Opera House Sydney(Sydney) và Suntory Hall (Tokyo). Ông đã tham gia các dàn nhạc lớn như Orchestre Symphonique de Montréal, BBC Philharmonic, Praha Symphony Orchestra, Moskva Philharmonic Orchestra cũng như Virtuosi of Moscow, Wiener KammerOrchester, Orkiestra Filharmonii Narodowej Warszawie và Sydney Symphony,... và đã thu âm tại Deutsche Grammophon, Melodia, Polskie Nagrania, CBS Sony và các hãng thu nhạc nổi tiếng khác.
VINH DANH
Năm 1984, Đặng Thái Sơn là một trong những nghệ sĩđầu tiên được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Khi đó, ông mới 26 tuổi, và là nghệ sĩ nhân dân trẻ nhất khi được trao tặng danh hiệu này từ trước đến nay.
Sau 10 năm sống ở Nga (1977-1987), ông dạy nhạc tại Kunitachi Music College (Tokyo, Nhật Bản). Năm 1991, ông định cư tại Montréal, Canada và dạy ở Đại học Montréal. Từ năm 1995, cùng với mẹ, Đặng Thái Sơn đã nhập quốc tịch Canada. Tháng 10 năm 1999, ông đã dạy một khóa nhạc chuyên nghiệp ở Berlincùng với Murray Perahia và Vladimir Davidovich Ashkenazy. Năm 1999, Đặng Thái Sơn là nghệ sĩ piano duy nhất không phải là người Ba Lan được mời đến dự buổi hòa nhạc nhân kỷ niệm 150 năm ngày mất của Frédéric Chopin. Từng là giám khảo trong nhiều cuộc thi âm nhạc, nhưng Đặng Thái Sơn cũng chính là người Á Đông đầu tiên được chọn vào ban giám khảo Concours Chopin năm 2005.
Những bài trình diễn của ông thường là những bài nhạc dương cầm của Frédéric Chopin, hay là của những nhạc sĩ trường phái lãng mạn và ấn tượng, cũng như những bài nhạc hòa tấu dương cầm của hầu như tất cả những nhà soạn nhạc nổi tiếng (Beethoven, Chopin, Schumann, Grieg, Mozart, Rachmaninov,...).
Tại Gala kỉ niệm 200 năm ngày sinh của Chopin tháng 3 năm 2010, Đặng Thái Sơn là một trong 3 nghệ sĩ toàn cầu được chọn để biểu diễn (cùng Lý Vân Địch người Trung Quốc và Garrick Ohlsson người Mỹ).
HIỆN TẠI (2019)
Định cư tại Montreal, Canada từ năm 1991. Hiện nay, Đặng Thái Sơn vẫn đang giảng dạy tại Đại học Montréal. Ông còn tham gia nhiều hoạt động tại Ngavà Việt Nam: quyên góp tiền để ủng hộ xây dựng lại Nhạc viện Tchaikovsky vì bị hỏa hoạn; cùng một nhóm bạn người Nhật đã thành lập một quỹ từ thiệnchủ yếu giúp đỡ Nhạc viện Hà Nội; cũng từ quỹ từ thiện này, Đặng Thái Sơn kêu gọi Chính phủ Nhật hỗ trợ sách nhạc, đàn,... cho một số trường tại Việt Nam. Hàng năm, ông thường về Việt Nam để tham gia vào các buổi hòa nhạc lớn.
01 tháng 7 2019
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU - NHÀ THƠ - NHÀ VĂN HÓA
Nguyễn Đình Chiểu - Nhà thơ - Nhà Văn hóa
GIỚI THIỆU CHUNG
Nguyễn Đình Chiểu (chữ Hán: 阮廷炤; 1/7/1822 - 3/7/1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Đình Chiểu
- Sinh: 1 tháng 7, 1822 Làng Tân Thới, Gia Định Thành, Việt Nam
- Mất: 3 tháng 7, 1888 (66 tuổi) Ba Tri, Sở Tham biện Bến Tre, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương
- Công việc: Nhà thơ, nhà văn hóa
THÂN THẾ - SỰ NGHIỆP
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên; nay thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Lớn lên, ông cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một gái). Mùa hạ, tháng 5 năm Canh Thìn (1820) Tả quân Lê Văn Duyệt được triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định Thành. Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân, để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, sinh ra bảy con (4 trai, 3 gái) và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Đi học
Thuở bé, Nguyễn Đình Chiểu được má nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo học với một ông thầy đồ ở làng.
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh biến, bố của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế, nên bị cách hết chức tước. Song vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định.
Năm Quý Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849). Lần này, ông cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu (10 tuổi).
Mẹ mất, bị mù lòa
Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (31 tháng 12 năm 1848), má Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ.
Trên đường trở về, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam thì Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng đã học được nghề thuốc. Lâm cảnh mù mắt, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Truyện thơ Lục Vân Tiên (SGK ngữ văn 9) của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc, trước thuộc Gia Định; nay thuộc tỉnh Long An) làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy, đã xin gia đình tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà Mậu của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn yêu nước
Năm 1858, quân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Việt, họ vào Nam đánh phá thành Gia Định vào đầu năm 1859. Sau khi tòa thành này thất thủ (17 tháng 2 năm 1859), Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh Ba (Cần Giuộc), tức quê vợ ông. Vô cùng đau đớn trước thảm cảnh mà quân Pháp đã gây nên cho đồng bào ông, và rất thất vọng về sự hèn yếu, bất lực của triều đình, ông làm bài thơ "Chạy giặc".
Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (16 tháng 12 năm 1861), những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh này.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay Pháp, theo phong trào "tỵ địa", Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba (Cần Giuộc) về Ba Tri (Bến Tre), vì không thể sống chung với họ. Chia tay với bạn bè thân quen, ông làm bài thơ "Từ biệt cố nhân".
Về Ba Tri, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa.
Năm 1863, em trai út ông là Nguyễn Đình Huân theo Đốc binh Là chống Pháp, hy sinh ở Cần Giuộc.
Tháng 8 năm 1864, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương Định bị thương rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và mười hai bài thơ liên hoàn để điếu ông.
Năm 1867, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản và Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông tổ chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ làng Hòa Hưng (Gia Định) về táng ở Bảo Thạnh (Ba Tri), Nguyễn Đình Chiểu có đến dự lễ rước.
Ngày 4 tháng 8 năm đó (1867), Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu có làm hai bài thơ điếu ông. Có thể ông bắt đầu soạn quyển thơ Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca trong năm này.
Năm 1868, thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng (còn có tên là Phan Ngọc Tòng) hy sinh, ông làm 10 bài thơ điếu.
Năm 1877, Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An Bình Đông (sau đổi là An Đức) cách chợ Ba Tri khoảng hai cây số.
Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến Tre là Michel Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông nhuận chính quyển thơ Lục Vân Tiên, đồng thời ngỏ ý trao trả lại ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm đoạt. Ông khẳng khái nói: "Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá gì", rồi khước từ mọi hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi ý muốn riêng của ông, ông đáp "muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh", và được viên Tỉnh trưởng chấp thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế tại chợ Ba Tri, và đọc bài "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh".
Qua đời
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng, hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông.
Ông được an táng cạnh mộ vợ, nay thuộc ấp 3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
TÁC PHẨM CHÍNH
Lục Vân Tiên (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851), gồm 2082 câu thơ lục bát. Đây là một "bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng ở đời" đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu, và là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Sau thời gian phổ biến theo lối truyền miệng, truyện Lục Vân Tiên đã được Duy Minh Thị (tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn) khắc in lần đầu ở Trung Quốctrước năm 1864, và đã được các nhà văn như Aubaret, Abel de Michels, Bajot...dịch ra tiếng nước ngoài.
Dương Từ – Hà Mậu (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854). Căn cứ bản Tân Việt (Sài Gòn, 1964) do Phan Văn Hùm sao lục và hiệu đính, thì tập thơ gồm 3.456 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen thơ luật Đường (33 bài) và các thể khác.... Tác giả mượn câu chuyện này để nói lên thái độ của ông đối với đạo Phật và Công giáo Rôma mà ông không tán thành.
Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư tiều y thuật vấn đáp, 1867?), gồm 3.642 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca, phú…trích từ các sách thuốc Trung Quốc. Đây là một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa bệnh, viết dưới hình thức truyện thơ Nôm. Song giá trị chủ yếu ở việc tác giả đã lồng tư tưởng yêu nước vào nội dung y thuật.
Ngoài ra, ông còn để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nổi tiếng, như:
Chạy giặc (1859)
Từ biệt cố nhân (1859)
Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn (tức Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 1861)
Mười hai bài thơ và bài văn tế Tướng quân Trương Định (1864)
Thơ điếu Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản (2 bài, 1867)
Mười bài thơ điếu Ba Tri Đốc binh Phan Tòng (1868)
Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn (Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết đích xác thời điểm sáng tác).
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Thảo thử hịch (Hịch đánh chuột, chưa xác định thời điểm sáng tác)
Ngóng gió đông (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Thà đui (chưa xác định thời điểm sáng tác), v.v...
Sự nghiệp văn chương
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù tối, và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người". Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông. Sự nghiệp văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác:
- Giai đoạn đầu (những năm 50 của thế kỷ 19): Trong giai đoạn này, ông viết "Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể xem đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của ông.
- Giai đoạn sau bắt đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định (1859) cho đến khi ông qua đời (1888): Ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy Giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận vong", v.v,...ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.
Và dù ở giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội dung và hình thức, đó là:
- Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.
- Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược.-Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn chương sử thi mới sau này.
Tóm lại, so với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn hợp tác...
GIAI THOẠI
Thực dân Pháp cho Tôn Thọ Tường, là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh mặt, Sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc, mà Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết, Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách Tôn Thọ Tường và sai người trả lại vàng.
Michel Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã mấy lần thân hành đến nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận sắc bản Lục Vân Tiên, nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có lần viên quan này thông báo việc trả lại ruộng đất ở Tân Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu, nhưng nhận được câu trả lời: "Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi sá gì!". Lần khác, M. Ponchon đặt ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói: "Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của các môn đệ và sự quý mến của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm rồi"...Duy nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ Chiểu nói chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những người dân đã chết trận, và đã được viên quan này đồng ý. Hôm đó, tại chợ Đập (nay là chợ Ba Tri), nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết, đông đảo mọi người đến dự đều không cầm được nước mắt....
THÔNG TIN LIÊN QUAN
Con của Nguyễn Đình Chiểu có tất cả là ba trai ba gái. Trong số ấy có nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (con gái thứ năm) và Nguyễn Đình Chiêm (con trai thứ sáu) đều là người có tiếng trong giới văn chương.
Toàn thể khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại huyện Ba Tri (Bến Tre) đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích Lịch sử Văn hóa ngày 16 tháng 3 năm 1993.
VINH DANH
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã lập ra Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu công bố năm 1965 dành tặng cho các tác giả, tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền Nam.
Nhiều tên đường tại các thành phố (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt v.v.) và tên trường học (nhất là các trường dành cho trẻ em khuyết tật) ở Việt Nam mang tên ông.
TÊN ĐƯỜNG PHỐ
Cuối năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mặt trận Việt Minh đã cho đổi tên đường mang tên người Pháp trước đây thành đường phố mang tên danh nhân người Việt Nam, trong đó có phố Nguyễn Đình Chiểu ở thành phố Hà Nội (nay là phố Phủ Doãn) và ở thành phố Hải Phòng (nay là phố Tôn Thất Thuyết). Tuy nhiên, sau khi thực dân Pháp chiếm lại được các thành phố này vào cuối năm 1946 thì tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũng bị mất đi và trở lại bằng các tên đường mang tên người Pháp như cũ.
Sau đó, chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu vốn trực thuộc khối Liên hiệp Pháp cũng cho đặt tên đường phố mang tên Nguyễn Đình Chiểu tại các thành phố này trên cở sở một lần nữa xóa bỏ tên đường mang tên người Pháp cũ. Cụ thể, từ đầu năm 1951 tại thành phố Hà Nội lại có phố Nguyễn Đình Chiểu tại khu vực làng Ngũ Xã cũ nằm ven bờ hồ Trúc Bạch; đến năm 1954 tới lượt thành phố Hải Phòng cũng cho đổi tên ngõ Đồng Lùn cũ thành ngõ Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, sau đó ở Hải Phòng ngõ này đã đổi lại tên cũ thành ngõ Đồng Lùn cho đến nay; và tại Hà Nội đến năm 1964 trên cơ sở cho rằng con phố Nguyễn Đình Chiểu ngắn và nhỏ như vậy hoàn toàn không phù hợp với công lao to lớn của ông đối với đất nước, chính quyền Hà Nội lại cho đổi tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũ thành phố Nam Tràng và giữ nguyên cho đến ngày nay; còn phố số 296 vốn chưa có tên nằm ven hồ Bảy Mẫu thì cho đặt tên là phố Nguyễn Đình Chiểu.
Từ năm 1950, tại vùng Hòa Hưng, Sài Gòn đã có một con đường nhỏ mang tên đường Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm 1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên thành đường Hòa Hưng cho đến ngày nay.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó bao gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định) có tới hai con đường mang tên Nguyễn Đình Chiểu:
Tại Đô thành Sài Gòn cũ, từ ngày 22 tháng 3 năm 1955 đường Nguyễn Đình Chiểu được đặt tên cho một con đường khá nhỏ ở vùng Tân Định, đi ngang qua Viện Pasteur, nối từ đường Hai Bà Trưng đến đường Trương Minh Giảng (nay là đường Trần Quốc Thảo). Ngày 14 tháng 8 năm 1975, đường Nguyễn Đình Chiểu cũ bị thay đổi tên thành đường Trần Quốc Toản, còn đường Phan Đình Phùng cũ thì đổi tên thành đường Nguyễn Đình Chiểu theo Quyết định của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Tại xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định cũ, từ sau năm 1955 cũng có một con đường ngắn và nhỏ mang tên là đường Nguyễn Đình Chiểu, giữ nguyên tên cho đến ngày nay.
GIỚI THIỆU CHUNG
Nguyễn Đình Chiểu (chữ Hán: 阮廷炤; 1/7/1822 - 3/7/1888), tục gọi là Đồ Chiểu (khi dạy học), tự Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai (sau khi bị mù); là nhà thơ lớn nhất của miền Nam Việt Nam trong nửa cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Đình Chiểu
- Sinh: 1 tháng 7, 1822 Làng Tân Thới, Gia Định Thành, Việt Nam
- Mất: 3 tháng 7, 1888 (66 tuổi) Ba Tri, Sở Tham biện Bến Tre, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương
- Công việc: Nhà thơ, nhà văn hóa
THÂN THẾ - SỰ NGHIỆP
Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ (1 tháng 7 năm 1822), tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc phường Cầu Kho, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).
Ông xuất thân trong gia đình nhà nho. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên; nay thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Lớn lên, ông cưới vợ ở đây và đã có hai con (một trai và một gái). Mùa hạ, tháng 5 năm Canh Thìn (1820) Tả quân Lê Văn Duyệt được triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định Thành. Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân, để tiếp tục làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người vợ thứ là bà Trương Thị Thiệt, người làng Tân Thới, sinh ra bảy con (4 trai, 3 gái) và Nguyễn Đình Chiểu chính là con đầu lòng.
Đi học
Thuở bé, Nguyễn Đình Chiểu được má nuôi dạy. Năm lên 6, 7 tuổi, ông theo học với một ông thầy đồ ở làng.
Năm 1832, Tả quân Lê Văn Duyệt mất. Năm sau (1833), con nuôi Tả quân là Lê Văn Khôi, vì bất mãn đã làm cuộc nổi dậy chiếm thành Phiên An ở Gia Định, rồi chiếm cả Nam Kỳ. Trong cơn binh biến, bố của Nguyễn Đình Chiểu bỏ trốn ra Huế, nên bị cách hết chức tước. Song vì thương con, cha ông lén trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn đang làm Thái phó ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 11 tuổi (1833) đến 18 tuổi (1840), thì trở về Gia Định.
Năm Quý Mão (1843), ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.
Năm 1847, ông ra Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu (1849). Lần này, ông cùng đi với em trai là Nguyễn Đình Tựu (10 tuổi).
Mẹ mất, bị mù lòa
Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (31 tháng 12 năm 1848), má Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ.
Trên đường trở về, vì quá thương khóc mẹ, vì vất vả và thời tiết thất thường, nên đến Quảng Nam thì Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Trong thời gian nghỉ chữa bệnh ở nhà một thầy thuốc vốn dòng dõi Ngự y, tuy bệnh không hết, nhưng ông cũng đã học được nghề thuốc. Lâm cảnh mù mắt, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa chịu tang mẹ cho đến năm 1851, thì mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi (Gia Định). Truyện thơ Lục Vân Tiên (SGK ngữ văn 9) của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới Lê Thị Điền (1835-1886, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc, trước thuộc Gia Định; nay thuộc tỉnh Long An) làm vợ. Bà Điền là em gái thứ năm của Lê Tăng Quýnh, học trò ông, vì cảm phục và mến thương thầy, đã xin gia đình tác hợp. Truyện thơ Dương Từ-Hà Mậu của ông có lẽ được bắt đầu sáng tác vào thời gian này.
Dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn yêu nước
Năm 1858, quân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng. Vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân và dân Việt, họ vào Nam đánh phá thành Gia Định vào đầu năm 1859. Sau khi tòa thành này thất thủ (17 tháng 2 năm 1859), Nguyễn Đình Chiểu đưa gia đình về sống ở Thanh Ba (Cần Giuộc), tức quê vợ ông. Vô cùng đau đớn trước thảm cảnh mà quân Pháp đã gây nên cho đồng bào ông, và rất thất vọng về sự hèn yếu, bất lực của triều đình, ông làm bài thơ "Chạy giặc".
Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (16 tháng 12 năm 1861), những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh này.
Sau Hòa ước Nhâm Tuất 1862, ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất về tay Pháp, theo phong trào "tỵ địa", Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình rời Thanh Ba (Cần Giuộc) về Ba Tri (Bến Tre), vì không thể sống chung với họ. Chia tay với bạn bè thân quen, ông làm bài thơ "Từ biệt cố nhân".
Về Ba Tri, ông tiếp tục dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kỳ suốt trong hơn 20 năm, dù đã mù lòa.
Năm 1863, em trai út ông là Nguyễn Đình Huân theo Đốc binh Là chống Pháp, hy sinh ở Cần Giuộc.
Tháng 8 năm 1864, thủ lĩnh cuộc kháng chiến chống Pháp ở Gò Công là Trương Định bị thương rồi tuẫn tiết ở Ao Dinh; xúc động, Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế và mười hai bài thơ liên hoàn để điếu ông.
Năm 1867, Kinh lược sứ Phan Thanh Giản và Đốc học Vĩnh Long Nguyễn Thông tổ chức đưa di hài nhà giáo Võ Trường Toản từ làng Hòa Hưng (Gia Định) về táng ở Bảo Thạnh (Ba Tri), Nguyễn Đình Chiểu có đến dự lễ rước.
Ngày 4 tháng 8 năm đó (1867), Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì không giữ được thành Vĩnh Long, Nguyễn Đình Chiểu có làm hai bài thơ điếu ông. Có thể ông bắt đầu soạn quyển thơ Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca trong năm này.
Năm 1868, thủ lĩnh kháng Pháp ở Ba Tri là Phan Tòng (còn có tên là Phan Ngọc Tòng) hy sinh, ông làm 10 bài thơ điếu.
Năm 1877, Nguyễn Đình Chiểu dời đến ở làng An Bình Đông (sau đổi là An Đức) cách chợ Ba Tri khoảng hai cây số.
Năm 1883, Tỉnh trưởng Bến Tre là Michel Ponchon đã đến nhà để yêu cầu ông nhuận chính quyển thơ Lục Vân Tiên, đồng thời ngỏ ý trao trả lại ruộng vườn của ông mà họ đã chiếm đoạt. Ông khẳng khái nói: "Đất vua không ai trả thì đất riêng của tôi có sá gì", rồi khước từ mọi hứa hẹn giúp đỡ của chính quyền thực dân. Lại hỏi ý muốn riêng của ông, ông đáp "muốn tế vong hồn nghĩa sĩ Lục tỉnh", và được viên Tỉnh trưởng chấp thuận. Sau đó, ông tổ chức lễ tế tại chợ Ba Tri, và đọc bài "Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh".
Qua đời
Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng, hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng qua đời tại Ba Tri, thọ 66 tuổi. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến mộ ông.
Ông được an táng cạnh mộ vợ, nay thuộc ấp 3, xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
TÁC PHẨM CHÍNH
Lục Vân Tiên (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1851), gồm 2082 câu thơ lục bát. Đây là một "bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý đáng trọng ở đời" đã làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu, và là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Sau thời gian phổ biến theo lối truyền miệng, truyện Lục Vân Tiên đã được Duy Minh Thị (tên thật là Trần Quang Quang ở Chợ Lớn) khắc in lần đầu ở Trung Quốctrước năm 1864, và đã được các nhà văn như Aubaret, Abel de Michels, Bajot...dịch ra tiếng nước ngoài.
Dương Từ – Hà Mậu (truyện thơ Nôm, bắt đầu soạn khoảng 1854). Căn cứ bản Tân Việt (Sài Gòn, 1964) do Phan Văn Hùm sao lục và hiệu đính, thì tập thơ gồm 3.456 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen thơ luật Đường (33 bài) và các thể khác.... Tác giả mượn câu chuyện này để nói lên thái độ của ông đối với đạo Phật và Công giáo Rôma mà ông không tán thành.
Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (Ngư tiều y thuật vấn đáp, 1867?), gồm 3.642 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca, phú…trích từ các sách thuốc Trung Quốc. Đây là một quyển sách dạy nghề làm thuốc chữa bệnh, viết dưới hình thức truyện thơ Nôm. Song giá trị chủ yếu ở việc tác giả đã lồng tư tưởng yêu nước vào nội dung y thuật.
Ngoài ra, ông còn để lại khoảng 37 bài thơ và văn tế, trong số đó có nhiều bài nổi tiếng, như:
Chạy giặc (1859)
Từ biệt cố nhân (1859)
Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn (tức Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 1861)
Mười hai bài thơ và bài văn tế Tướng quân Trương Định (1864)
Thơ điếu Đông các Đại học sĩ Phan Thanh Giản (2 bài, 1867)
Mười bài thơ điếu Ba Tri Đốc binh Phan Tòng (1868)
Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn (Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh, chưa biết đích xác thời điểm sáng tác).
Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Thảo thử hịch (Hịch đánh chuột, chưa xác định thời điểm sáng tác)
Ngóng gió đông (chưa xác định thời điểm sáng tác)
Thà đui (chưa xác định thời điểm sáng tác), v.v...
Sự nghiệp văn chương
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho tiết tháo, sống theo đạo nghĩa, tuy mang tật mù tối, và gặp lúc biến loạn mà vẫn giữ được phẩm cách thanh cao. Ông không chỉ là người con có hiếu, người thầy mẫu mực, mà còn là một nhà thơ yêu nước, đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị.
Ông là nhà thơ có quan niệm văn chương nhất quán. Ông chủ trương dùng văn chương biểu hiện đạo lý và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa. Nói khác hơn, ông làm thơ là để "chở đạo, sửa đời và dạy người". Vì vậy, mỗi vần thơ của ông đều ngụ ý khen chê công bằng, rạch ròi, và đều bộc lộ một tấm lòng thương dân, yêu nước của ông. Sự nghiệp văn chương của ông, có thể chia thành hai thời kỳ sáng tác:
- Giai đoạn đầu (những năm 50 của thế kỷ 19): Trong giai đoạn này, ông viết "Lục Vân Tiên" và "Dương Từ-Hà Mậu". Có thể xem đây là thời kỳ khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng yêu nước yêu dân của ông.
- Giai đoạn sau bắt đầu từ ngày quân Pháp đến chiếm lấy Gia Định (1859) cho đến khi ông qua đời (1888): Ngòi bút của ông ở giai đoạn này gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân mất nước. Trong nhiều tác phẩm như "Chạy Giặc", "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", "Lục tỉnh sĩ dân trận vong", v.v,...ông đã lên án mạnh mẽ quân Pháp xâm lược, phê phán triều đình nhu nhược, đồng thời ca ngợi tinh thần nghĩa khí và những tấm gương chiến đấu anh dũng của nhân dân. Đây là giai đoạn phát triển cao và rực rỡ của sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Chiểu.
Và dù ở giai đoạn nào, trong các tác phẩm của ông nổi bật lên ba đặc điểm về nội dung và hình thức, đó là:
- Ông thường dùng chữ Nôm, và bằng ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu sức gợi cảm, khiến cho tác phẩm của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam.
- Ông là nhà thơ đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn học Việt, đắp tô tượng đài vĩnh cửu về người anh hùng Nam Bộ tiên phong trong công cuộc chống thực dân Pháp xâm lược.-Ông đề cao tư tưởng Nho gia, xem ra có vẻ bảo thủ. Song điều đáng chú ý là các tư tưởng ấy mang nội dung đạo nghĩa nhân dân, gắn chặt với ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh của đất nước, do đó có một ý nghĩa xã hội to lớn, khởi đầu cho một thời đại văn chương sử thi mới sau này.
Tóm lại, so với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn hợp tác...
GIAI THOẠI
Thực dân Pháp cho Tôn Thọ Tường, là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh mặt, Sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc, mà Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết, Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách Tôn Thọ Tường và sai người trả lại vàng.
Michel Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã mấy lần thân hành đến nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận sắc bản Lục Vân Tiên, nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có lần viên quan này thông báo việc trả lại ruộng đất ở Tân Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu, nhưng nhận được câu trả lời: "Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi sá gì!". Lần khác, M. Ponchon đặt ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói: "Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của các môn đệ và sự quý mến của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm rồi"...Duy nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ Chiểu nói chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những người dân đã chết trận, và đã được viên quan này đồng ý. Hôm đó, tại chợ Đập (nay là chợ Ba Tri), nghe Đồ Chiểu đọc bài văn tế thảm thiết, đông đảo mọi người đến dự đều không cầm được nước mắt....
THÔNG TIN LIÊN QUAN
Con của Nguyễn Đình Chiểu có tất cả là ba trai ba gái. Trong số ấy có nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (con gái thứ năm) và Nguyễn Đình Chiêm (con trai thứ sáu) đều là người có tiếng trong giới văn chương.
Toàn thể khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu tại huyện Ba Tri (Bến Tre) đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận di tích Lịch sử Văn hóa ngày 16 tháng 3 năm 1993.
VINH DANH
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã lập ra Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu công bố năm 1965 dành tặng cho các tác giả, tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền Nam.
Nhiều tên đường tại các thành phố (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt v.v.) và tên trường học (nhất là các trường dành cho trẻ em khuyết tật) ở Việt Nam mang tên ông.
TÊN ĐƯỜNG PHỐ
Cuối năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Mặt trận Việt Minh đã cho đổi tên đường mang tên người Pháp trước đây thành đường phố mang tên danh nhân người Việt Nam, trong đó có phố Nguyễn Đình Chiểu ở thành phố Hà Nội (nay là phố Phủ Doãn) và ở thành phố Hải Phòng (nay là phố Tôn Thất Thuyết). Tuy nhiên, sau khi thực dân Pháp chiếm lại được các thành phố này vào cuối năm 1946 thì tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũng bị mất đi và trở lại bằng các tên đường mang tên người Pháp như cũ.
Sau đó, chính quyền Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại đứng đầu vốn trực thuộc khối Liên hiệp Pháp cũng cho đặt tên đường phố mang tên Nguyễn Đình Chiểu tại các thành phố này trên cở sở một lần nữa xóa bỏ tên đường mang tên người Pháp cũ. Cụ thể, từ đầu năm 1951 tại thành phố Hà Nội lại có phố Nguyễn Đình Chiểu tại khu vực làng Ngũ Xã cũ nằm ven bờ hồ Trúc Bạch; đến năm 1954 tới lượt thành phố Hải Phòng cũng cho đổi tên ngõ Đồng Lùn cũ thành ngõ Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, sau đó ở Hải Phòng ngõ này đã đổi lại tên cũ thành ngõ Đồng Lùn cho đến nay; và tại Hà Nội đến năm 1964 trên cơ sở cho rằng con phố Nguyễn Đình Chiểu ngắn và nhỏ như vậy hoàn toàn không phù hợp với công lao to lớn của ông đối với đất nước, chính quyền Hà Nội lại cho đổi tên phố Nguyễn Đình Chiểu cũ thành phố Nam Tràng và giữ nguyên cho đến ngày nay; còn phố số 296 vốn chưa có tên nằm ven hồ Bảy Mẫu thì cho đặt tên là phố Nguyễn Đình Chiểu.
Từ năm 1950, tại vùng Hòa Hưng, Sài Gòn đã có một con đường nhỏ mang tên đường Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm 1955, chính quyền Sài Gòn đổi tên thành đường Hòa Hưng cho đến ngày nay.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó bao gồm Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định) có tới hai con đường mang tên Nguyễn Đình Chiểu:
Tại Đô thành Sài Gòn cũ, từ ngày 22 tháng 3 năm 1955 đường Nguyễn Đình Chiểu được đặt tên cho một con đường khá nhỏ ở vùng Tân Định, đi ngang qua Viện Pasteur, nối từ đường Hai Bà Trưng đến đường Trương Minh Giảng (nay là đường Trần Quốc Thảo). Ngày 14 tháng 8 năm 1975, đường Nguyễn Đình Chiểu cũ bị thay đổi tên thành đường Trần Quốc Toản, còn đường Phan Đình Phùng cũ thì đổi tên thành đường Nguyễn Đình Chiểu theo Quyết định của Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Tại xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định cũ, từ sau năm 1955 cũng có một con đường ngắn và nhỏ mang tên là đường Nguyễn Đình Chiểu, giữ nguyên tên cho đến ngày nay.
15 tháng 12 2013
Gustave Eiffel - Nhà thiết kế tháp Eiffel
Alexandre Gustave Eiffel (15 tháng 12 năm 1832 – 27
tháng 12 năm 1923; Phát âm tiếng Pháp: [efɛl], tiếng Anh: /ˈaɪfəl/) là một kỹ sư kết cấu, nhà thầu và một nhà
chuyên môn về các kết cấu kim loại người Pháp. Ông nổi tiếng vì đã thiết kế
Tháp Eiffel, xây dựng năm 1887–1889 cho Triển lãm Thế giới năm 1889 tại Paris,
Pháp, và cốt cho Tượng thần Tự do, ở Cảng New York, Hoa Kỳ
Tuổi trẻ
Alexandre Gustave Eiffel sinh tại Dijon , Côte-d'Or, Pháp. Cái tên Gustave Eiffel được
cha ông lấy từ đầu thế kỷ 19 theo nơi sinh của ông tại vùng Eifel
Đức (ở Marmagen), bởi người Pháp không thể đánh vần được họ của ông,
Bönickhausen. Thời tuổi trẻ, hai luồng ảnh hưởng mạnh nhất tới Gustave Eiffel đều là
những nhà hoá học thành công, hai người chú Jean-Baptiste Mollerat và Michel
Perret. Cả hai đều bỏ rất nhiều thời gian chơi với Gustave Eiffel, nhồi nhét vào đầu
ông mọi thứ từ các kiến thức hoá học tới khai mỏ tới tôn giáo và triết học. Ở
trường học, Gustave Eiffel rất thông minh, nhưng không chăm chỉ lắm. Khi theo học trung
học tại Lycée Royal, Gustave Eiffel thấy chán ngán và cảm thấy rằng các buổi học là một
sự phí phạm thời gian. Mãi tới hai năm học cuối cùng Gustave Eiffel mới tìm được niềm cảm hứng của mình, không phải trong kỹ thuật, mà là trong lịch sử và văn học.
Các thói quen học tập của Gustave Eiffel dần cải thiện và ông tốt nghiệp với bằng cấp
cả về khoa học và nhân văn. Gustave Eiffel đăng ký theo học tại một trường cao đẳng ở Sainte Barbe
College tại Paris , để chuẩn bị cho các kỳ thi đầu vào khó
khăn tại École Polytechnique. École Polytechnique từng, và vẫn là, ngôi trường
nổi tiếng về kỹ thuật ở Pháp. Cuối cùng, Alexandre Gustave Eiffel không được nhận vào École
Polytechnique, nhưng thay vào đó ông theo học tại École Centrale des Arts et
Manufactures ở Paris
nơi ông học hoá học, nhận được bằng cấp tương đương Thạc sĩ Khoa học năm 1855.
École Centrale là một trường tư tự do hiện nổi tiếng là một trong các trường kỹ
thuật hàng đầu châu Âu. Công việc kinh doanh than của mẹ ông mang lại nguồn thu
nhập dư dật cho gia đình và tạo điều kiện cho Gustave có được nền giáo dục đại
học. Năm 1855 cũng là năm Paris
đứng ra tổ chức Hội chợ Thế giới đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp, người chú của Gustave Eiffel đề nghị ông làm việc tại một xưởng dấm ở Dijon , Pháp. Tuy nhiên, một cuộc tranh cãi
gia đình đã không chấp nhận cơ hội đó, và Gustave Eiffel nhanh chóng thành nhân viên
mới tại một công ty thiết kế cầu đường sắt.
Charles Nepveu trao cho Gustave Eiffel công việc đầu tiên với
tư cách một trong nhiều quản lý dự án của một cầu đường sắt nằm ở Bordeaux , Pháp. Trong quá
trình xây dựng, các kỹ sư lớn tuổi ở dự án dần thôi việc, và Gustave Eiffel cuối cùng
đảm nhiệm cả dự án. Neveu theo dõi công việc của Gustave Eiffel tại hiện trường và tiếp
tục đặt Gustave Eiffel vào các công việc khác liên quan tới quản lý dự án các cầu và
kết cấu đường sắt. Trong những dự án này, Gustave Eiffel được biết các kỹ sư khác thời
ấy, và ông được ghi nhớ với công việc của mình và được mời làm việc tại các dự
án khác. Nepveu có ảnh hưởng mạnh tới Gustave Eiffel giúp ông trở nên thành công hơn
với những dự án trong tương lai.
Sự nghiệp
Eiffel et Cie., công ty tư vấn và xây dựng của
Eiffel, với sự hỗ trợ của kỹ sư người Bỉ Téophile Seyrig, đã tham gia vào gói
thầu quốc tế xây dựng một cây cầu đường sắt dài 160m qua sông Douro, giữa
Oporto và Vila Nova de Gaia, Bồ Đào Nha. Đề xuất của ông giành chiến thắng bởi
nó đẹp, có cấu trúc trong sáng, giá thành thấp nhất, và nó tích hợp việc sử
dụng phương pháp các lực, khi ấy là một kỹ thuật mới trong thiết kế cấu trúc do
Maxwell phát triển năm 1864. Ponte Maria Pia là một vòng cung khớp đôi đỡ một
đường sắt đơn qua các cột tăng cường cho toàn bộ cây cầu. Việc xây dựng được
tiến hành nhanh chóng và cây cầu hoàn thành trong chưa tới hai năm (5 tháng 1
năm 1876 tới mùng 4 tháng 11 năm 1877). Nó được Vua D. Luís và Nữ hoàng D.
Maria Pia khai trương, và cây cầu được đặt theo tên nữ hoàng. Cây cầu được sử
dụng cho tới tận năm 1991 (114 năm), khi nó được thay thế bởi Cầu S. John, được
thiết kế bởi kỹ sư Edgar Cardoso. Eiffel đã xây dựng một số cầu đường sắt thép
đúc tại Massif Central , như các cầu cạn tại
Rouzat và Bouble. Chúng vẫn được dùng cho các chuyến tàu địa phương và được xây
dựng cuối những năm 1860.
Gustave Eiffel cũng thiết kế La Ruche tại Paris , Pháp. Cây cầu này,
giống như Tháp Eiffel, trở thành một địa điểm thắng cảnh của thành phố. Đây là
một kết cấu tròn ba tầng trông giống như một tổ ong lớn và được tạo ra như một
kết cấu tạm thời sử dụng như một nhà vòm rượu tại Đại Triển lãm năm 1900. La
Ruche trong tiếng Pháp có nghĩa "tổ ong". Ông cũng xây dựng cầu cạn
Garabit, một cầu đường sắt gần Ruynes en Margeride tại Cantal département. Ở
Châu Mỹ, Eiffel thiết kế ga đường sắt trung tâm tại Santiago de Chile (1897) và
Mona Island Light nằm gần Puerto Rico . Cây đèn
biển được xây dựng khoảng năm 1900 bởi Hoa Kỳ nước đã chiếm được hòn đảo sau
khi chấm dứt Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ. Nó ngừng hoạt động năm 1976.
Năm 1887, Gustave Eiffel tham gia vào nỗ lực của Pháp xây
dựng một Kênh Panama .
Công ty Kênh Panama Pháp, dưới sự lãnh đạo của Ferdinand de Lesseps, đã tìm
cách xây dựng một con kênh ngang mực nước biển, nhưng cuối cùng nhận ra rằng
điều này là không thể thực hiện. Một con kênh nâng, với các cống đã được lựa
chọn làm thiết kế mới, và Eiffel được giao việc thiết kế và xây dựng các cống.
Tuy nhiên, toàn bộ dự án kênh gặp vấn đề quản lý kém nghiêm trọng, và cuối cùng
sụp đổ với thiệt hại to lớn. Danh tiếng của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng nghiêm trọng
khi ông bị dính líu vào các scandal tài chính liên quan tới de Lesseps và các
doanh nghiệp hỗ trợ dự án. Chính Gustave Eiffel không liên quan tới các vấn đề tài
chính, và sau này phán quyết có tội với ông đã được đảo ngược. Tuy nhiên,
công việc của ông không bao giờ được thực hiện, bởi nỗ lực xây dựng kênh sau
này của người Mỹ sử dụng các thiết kế cống mới (xem Lịch sử Kênh Panama).
Sau khi nghỉ hưu ông nghiên cứu và phát triển những ý
tưởng mới thông qua việc sử dụng thực tế Tháp Eiffel. Tháp cho phép ông thực
hiện những tiến bộ trong khí động học, khí tượng học, và truyền phát radio. Ông
đã xây dựng một đường hầm gió tại đáy tháp để nghiên cứu khí động học, đặt các
thiết bị khí tượng ở nhiều vị trí trên tháp, và đề nghị quân đội lắp đặt thiết
bị radio trên đỉnh tháp. Trong những năm tiếp theo tháp tiếp tục được sử dụng
cho truyền phát radio và cuối cùng được dùng để phát sóng vô tuyến.
Gustave Eiffel mất này 27 tháng 12 năm 1923 trong ngôi nhà
của ông tại Rue Rabelais ở Paris, Pháp. Ông được chôn cất tại Cimetière de
Levallois-Perret.
Gustave Eiffel cũng đã từng tới nhiều nơi như Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Philippines, vân vân, thiết kế các toà nhà và các cấu trúc
khác trong những chuyến thăm của mình. Ông trở nên rất nổi tiếng trên thế giới
về ngọn tháp chúng ta đều biết ngày nay với cái tên Tháp Eiffel (đã đề cập ở
trên).
Dấu ấn
Bức tranh năm 1886 của Edward Moran, The Statue of
Liberty Enlightening the World (Tượng Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới), thể
hiện lễ khai trương Tượng thần Tự do.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp đóng một vai trò quan
trọng trong cuộc đời của Gustave Eiffel. Mọi người đi vòng quanh thế giới, các
kỹ thuật và vật liệu mới xuất hiện, và các quốc gia tiến lên công nghiệp hoá.
Đa số các công việc của Gustave Eiffel bị ảnh hưởng bởi một trong những điều kiện do
cuộc Cách mạng Công nghiệp tạo ra.
Điều kiện ảnh hưởng mạnh nhất tới công việc của Gustave Eiffel là giao thông. Mọi người trên khắp thế giới có nhu cầu đi lại an toàn
qua các con sông và cần tới những cây cầu. Việc xây dựng những cây cầu đó đã
khiến Eiffel có được danh tiếng là một kỹ sư, cho phép ông theo đuổi những dự
án lớn hơn và khó khăn hơn sau này. Những cây cầu ông thiết kế được xây dựng
trên khắp thế giới. Những cây cầu cho phép việc đi lại và thương mại diễn ra dễ
dàng và nhanh chóng hơn tại những địa điểm chúng được xây dựng. Nhiều cây cầu
của Eiffel không đòi hỏi phải có thợ tay nghề cao để lắp ráp, khiến chúng trở
thành một lựa chọn rất kinh tế.
Tháp Eiffel có một dấu ấn lớn tại Pháp. Tháp là điểm
nhấn của Triển lãm Thế giới (1889) và thu hút hàng triệu người tới Paris . Gần hai triệu
người tới thăm Tháp Eiffel chỉ riêng trong năm 1889. Tháp nhanh chóng trở thành
một điểm thu hút khách du lịch và mang lại những khoản tiền lớn cho nền kinh tế
Pháp. Ban đầu bị coi là một thứ gây chướng mắt (thực tế nó được thiết kế để có
thể được tháo dỡ dễ dàng sau cuộc Triển lãm), tháp nhanh chóng trở thành một
biểu tượng quốc gia của Pháp và mang lại cảm giác tự hào cho người dân sống tại
đó. Năm 1910 Gustave Eiffel đã có một kết luận phi thường trong xác định độ
kháng gió của một đĩa phẳng; Gustave đã dùng Tháp Eiffel làm nơi thí nghiệm.
Tượng thần Tự do là một món quà của Pháp cho Mỹ.
Thiết kế của Eiffel cho cấu trúc bên trong tượng cho phép nó có thể được thực
hiện trong thực tế. Tượng thể hiện tình hữu nghị và sự tôn trọng giữa Pháp và
Mỹ. Tượng thần Tự do nhanh chóng trở thành một biểu tượng quốc gia về tự do tại
Hoa Kỳ và cũng khiến những công dân nước này tự hào. Bức tượng trở thành một
điểm thu hút du khách nổi tiếng và khiến nhiều người tới New York , làm phát triển mạnh nền kinh tế.
Nhiều người Mỹ sống tại Pháp rất hài lòng về món quà dành cho nước mình và để
đáp lễ, đã chế tạo một bức tượng đồng tỷ lệ ¼ ở phía cuối dòng Île aux Cygnes,
1.4 km phía tây nam Tháp Eiffel.
Với tất cả những cơ hội do cuộc Cách mạng Công nghiệp
mang lại, nó cũng đưa tới nhiều thách thức. Bởi Eiffel có cơ hội làm việc tại
nhiều dự án ở những địa điểm khác nhau, các kỹ sư khác cũng có cơ hội tương tự.
Tính cạnh tranh cho các dự án rất cao và danh tiếng của kỹ sư đóng một vai trò
quan trọng trong việc thắng thầu dự án. Quả thực một thách thức khác trong sự
nghiệp của Eiffel là đưa ra các vật liệu xây dựng mới. Bởi các vật liệu xây
dựng mới chưa từng được chứng minh trong các dự án, các kỹ sư thường phải đối
mặt với nguy cơ khi sử dụng chúng. Nhiều cây cầu Eiffel đã xây dựng được làm
bằng thép là vật liệu mà ông đã giúp trở thành tiên phong. Với sự phát triển
của Thế gới Công nghiệp thời kỳ ấy. Một số phát triển của ông gồm: thiết kế một
hệ thống nén thuỷ lực cho phép các công nhân đặt móng cầu sâu hơn dưới nước,
tạo ra các dàn vì kèo và kết cấu khung khoẻ nhưng có trọng lượng nhẹ "kiểu
thanh dầm" có khả năng chống gió mạnh, sử dụng thép rèn cho xây dựng cầu
bởi độ dẻo của nó có thể chống lại gió mạnh, uốn cong các đầu cột để tạo ra các
đáy ổn định hơn, và phát triển "lao" là một cách dễ dàng hơn để di
chuyển các thành phần kết cấu tới vị trí. Sự khéo léo và tài năng nổi bật của Gustave Eiffel cho phép ông thiết kế và xây dựng một số cấu trúc nổi tiếng nhất thế giới.
Từ khóa: Alexandre Gustave Eiffel
11 tháng 12 2013
Robert Koch - bác sĩ và nhà sinh học người Đức
Heinrich
Hermann Robert Koch (11 tháng 12 năm 1843 – 27 tháng 5 năm 1910) là một bác sĩ
và nhà sinh học người Đức. Ông nổi tiếng như một người đã tìm ra trực khuẩn bệnh
than (1877), trực khuẩn lao (1882) và vi khuẩn bệnh tả (1883) đồng thời là người
đã phát biểu nguyên tắc Koch. Ông đã được trao giải Nobel dành cho Sinh lý và Y
học cho các công trình về bệnh lao vào năm 1905. Ông cũng được coi là một trong
số những người đặt nền móng cho vi khuẩn học.
Tiểu sử
Robert
Koch sinh vào ngày 11 tháng 12 năm 1843 tại Clausthal, trên núi Upper Harz, Đức.
Là con trai của một người kĩ sư mỏ, ông làm bố mẹ phải kinh ngạc khi nói với họ
rằng ông đã tự học đọc bằng một tờ báo. Đó là dấu ấn đầu tiên về sự thông minh
và tính kiên trì về mặt phương pháp – những đức tính đã theo ông trong suốt cuộc
đời sau này. Ông học ở một trường cấp 3 địa phương (trường Gymnasium). Ở đó ông
đã thể hiện mối quan tâm tới sinh học, và cũng như bố, ham muốn mạnh mẽ đi du lịch
khám phá.
Năm
1862, Koch tới Đại học Göttingen để học y khoa. Tại đây, Koch bị ảnh hưởng bởi
tư tưởng của giáo sư môn giải phẫu học là Friedrich Gustav Jakob Henle về bệnh
truyền nhiễm là do những loài sinh vật sống kí sinh (luận điểm này đã được xuất
bản vào năm 1840). Sau khi lấy bằng bác sĩ vào năm 1866, Koch tới Berlin sáu
tháng để học hoá học dưới sự dẫn dắt của Virchow. Cùng năm, Koch cưới Emmy
Fraats. Bà đã sinh cho ông một người con gái duy nhất là Gertrud (sinh năm
1865), người mà sau này trở thành vợ của tiến sĩ E. Pfuhl. Năm 1867, ông bắt đầu
ổn định cuộc sống sau thời gian thực tập, đầu tiên ở Langenhagen và không lâu
sau đó, năm 1869, ở Rackwitz, tỉnh Posen. Ở đây ông đã vượt qua kì thi nhân
viên ngành y của tỉnh. Năm 1870, ông tham gia tình nguyện phục vụ trong cuộc
Chiến tranh Pháp – Phổ và từ năm 1872 tới 1880 là nhân viên ngành y của tỉnh Wollstein.
Cũng chính ở đây, ông đã thực hiện những nghiên cứu bước ngoặt, những nghiên cứu
đã đưa ông lên vị trí cao trong giới khoa học.
Bệnh
than vào thời đó đang xuất hiện trong các trang trại chăn nuôi ở tỉnh Wollstein
và Koch, mặc dù không có công cụ nghiên cứu khoa học nào và còn bị tách biệt với
thư viện và giới khoa học, đã lao vào nghiên cứu bệnh này bất chấp sức ép từ
công việc bận rộn của ông. Phòng thí nghiệm của ông là căn nhà 4 phòng và cũng
chính là nhà ông, còn dụng cụ nghiên cứu của ông, ngoài cái kính hiển vi vợ ông
tặng, đều do ông tự trang bị. Trước đó thì trực khuẩn than đã được tìm ra bởi
Pollender, Rayer và Davaine; và Koch đặt ra mục tiêu là chứng minh loài trực
khuẩn này chính là tác nhân gây bệnh than.
Ông
cấy vào chuột, bằng miếng gỗ tự chế, trực khuẩn than lấy từ lá lách của những động
vật trong nông trại đã bị chết bởi bệnh than, và thấy rằng những con chuột này
bị chết bởi trực khuẩn. Trong khi cùng lúc những con chuột được cấy bằng máu từ
lách của những con vật nuôi khoẻ mạnh thì không bị mắc bệnh than. Điều này củng
cố cho những nghiên cứu khác đã chứng minh rằng bệnh này có thể lây qua đường
máu từ những con vật đã bị bệnh.
Nhưng
điều đó chưa thoả mãn Koch. Ông còn muốn biết những con trực khuẩn than chưa
bao giờ phát triển trong động vật thì có khả năng gây bệnh hay không. Để giả
quyết vấn đề này, ông đã triết xuất pure culture của trực khuẩn bằng cách nuôi
cấy chúng trong dịch lấy từ mắt bò. Bằng cách nghiên cứu, vẽ và chụp hình lại
những môi trường nuôi cấy này, Koch đã ghi lại sự nhân lên của trực khuẩn và nhận
thấy rằng điều kiện nuôi cấy không thích hợp với chúng, chúng đã tạo ra bào tử
(spore) bên trong chúng để chống lại điều kiện bất lợi đặc biệt là thiếu ôxy,
và khi điều kiện thuận lợi trở lại, bào tử có thể trở lại thành trực khuẩn.
Koch nuôi trực khuẩn qua vài thế hệ trong pure culture và chỉ ra rằng cả khi
chúng không hề lớn lên trong động vật thì chúng vẫn có khả năng gây bệnh than.
Kết
quả của công việc lao khổ này đã được Koch trình bày cho Ferdinand Cohn, giáo
sư thực vật học ở Đại học Breslau, người đã tổ chức một cuộc họp cùng với những
đồng nghiệp của mình cùng làm chứng cho sự trình bày của Koch trong số đó có
giáo sư Cohnheim, giáo sư về giải phẫu bệnh học. Cả Cohn và Cohnheim đều bị ấn
tượng bởi công trình của Koch và khi Cohn, vào năm 1876, xuất bản công trình của
Koch trong một tờ báo của ngành thực vật học mà ông làm biên tập viên thì Koch
đã lập tức trở nên nổi tiếng. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục làm việc ở Wollstein 4
năm sau đó và trong thời gian đó đã tiến bộ hơn nhiều trong kĩ năng cố định,
nhuộm và chụp hình vi khuẩn đồng thời nghiên cứu thêm một số công trình quan trọng
nữa về bệnh gây ra bởi vi khuẩn trong các vết thương, và xuất bản công trình
vào năm 1878. Trong những công trình này ông đã nêu lên, cũng như những gì ông
đã làm với bệnh than, bản chất khoa học và thực nghiệm cho cách kiểm soát những
bệnh truyền nhiễm đó.
Tuy
nhiên Koch vẫn còn thiếu điều kiện cho công việc của ông và phải tới năm 1880,
khi ông được bổ nhiệm làm thành viên của Reichs-Gesundheitsamt (Cục Y tế Hoàng
gia) ở Berlin, thì ông mới được cung cấp đầu tiên là một phòng hẹp, thiếu thốn
nhưng sau đó là một phòng thí nghiệm đầy đủ hơn, trong đó ông đã làm việc với
các phụ tá là Loeffler, Gaffky và những người khác. Ở đây, Koch tiếp tục hoàn
thiện phương pháp nghiên cứu vi khuẩn mà ông đã dùng ở Wollstein. Ông phát minh
ra phương pháp mới Reinkulturen – cấy pure culture của vi khuẩn vào môi trường
nuôi cấy rắn như khoai tây, hay thạch đựng trong một loại đĩa đặc biệt phát
minh bởi đồng nghiệp của ông là Julius Richard Petri, mà tới nay nó vẫn được sử
dụng phổ biến. Ông cũng phát minh ra một phương pháp nhuộm vi khuẩn mới làm
chúng dễ nhìn hơn và giúp xác minh chúng. Kết quả của những công trình này là sự
mở đầu cho phương pháp nghiên cứu vi khuẩn gây bệnh trong đó vi khuẩn có thể dễ
dàng tách ra trong pure culture, không nằm trong cơ thể sinh vật và vì vậy
chúng có thể được xác định.
Koch
cũng đặt ra tiêu chuẩn, được biết đến như nguyên tắc Koch (Koch's postulate). Để
chấp nhận một vi khuẩn nào đó là nguyên nhân gây ra một bệnh nhất định hay
không thì tất cả tiêu chuẩn của "nguyên tắc Koch" cần được thoả mãn.
Hai
năm sau khi tới Berlin, Koch phát hiện ra trực khuẩn lao và phương pháp nuôi cấy
nó trên pure culture. Năm 1882, ông xuất bản công trình kinh điển của ông về trực
khuẩn. Ông vẫn tiếp tục bận rộn nghiên cứu cho tới khi ông được cử tới Ai Cập
vào năm 1883 với vai trò Chủ tịch Uỷ ban về bệnh tả của Đức, để điều tra về dịch
tả đang bùng phát ở đó. Ở đây ông đã phát hiện ra vi khuẩn vibrio là nguyên
nhân gây bệnh tả và mang được pure culture của vi khuẩn này về Đức. Ông cũng
nghiên cứu cả vi khuẩn tả ở Ấn Độ.
Trên
cơ sở những kiến thức của ông về đặc điểm sinh học và sự phân bố của vi khuẩn tả,
Koch đã hệ thống hoá nguyên tắc để kiểm soát dịch tả và điều đó đã được chấp
thuận bởi Quyền tối cao ở Dresden vào năm 1893 và nó đã trở thành nền móng cho
việc kiểm soát dịch tả ngày nay. Công trình của ông về bệnh tả đã được nhận giải
thưởng 100 ngàn mark Đức đồng thời cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc có kế
hoạch bảo vệ nguồn nước sinh hoạt.
Năm
1885, Koch được phong Giáo sư về vệ sinh học của Đại học Berlin và Giám đốc của
Viện vệ sinh mới được thành lập lúc đó tại trường này. Năm 1890 ông được phong
thượng tướng và người có đặc quyền (Freeman) của thành phố Berlin. Năm 1891 ông
trở thành Giáo sư Danh dự của khoa Y ở Berlin và Giám đốc Viện các bệnh truyền
nhiễm, nơi ông đã may mắn gặp được những đồng nghiệp như Ehrlich, von Behring
và Kitasato, cũng là những nhà phát minh nổi tiếng. Năm 1893, Koch cưới người vợ
thứ hai là Hedwig Freiberg.
Trong
thời gian này, Koch quay lại với những nghiên cứu về bệnh lao. Ông cố gắng hãm
lại quá trình phát triển bệnh bằng chất mà ông gọi là tuberculin, được làm từ
môi trường nuôi cấy trực khuẩn lao. Ông chuẩn bị các mẫu tuberculin, mới và cũ,
và sự thông báo về mẫu tuberculin cũ đã gây rất nhiều tranh cãi. Khả năng chữa
trị của chất này theo như những gì Koch tuyên bố là một sự thổi phồng, và bởi
vì hi vọng từ nó không được thoả mãn, dư luận quay ra chống lại nó và chống lại
Koch. Chất tuberculin mới được Koch công bố vào năm 1896 và khả năng chữa trị của
nó cũng làm thất vọng mọi người; nhưng nó đã dẫn tới sự phát hiện của một chất
có giá trị về mặt chẩn đoán.
Trong
khi công trình về tuberculin vẫn tiếp tục, đồng nghiệp của ông ở Viện về các bệnh
truyền nhiễm là von Behring, Ehrlich và Kitasato nghiên cứu và xuất bản công
trình mang tính bước ngoặt của họ về sự miễn dịch của bệnh bạch hầu.
Năm
1896, Koch tới Nam Phi để nghiên cứu nguyên nhân của bệnh dịch virut Rinde
(rinderpest) và mặc dù ông không tìm được nguyên nhân, ông cũng đã thành công
trong việc hạn chế sự bùng phát của bệnh dịch bằng cách tiêm cho những con gia
súc khoẻ mạnh mật lấy từ túi mật của những con đã bị bệnh. Rồi sau đó là các
nghiên cứu ở Ấn Độ và châu Phi về sốt rét, sốt rét tiểu đen (blackwater fever),
bệnh xura (surra) ở gia súc, ngựa và bệnh dịch hạch và xuất bản những quan sát
của ông về các bệnh này vào năm 1898. Không lâu sau khi quay lại Đức, ông lại
được cử tới Ý và vùng nhiệt đới nơi ông xác nhận công trình của Ronald Ross về
sốt rét và làm được một số công việc có ích trong nghiên cứu về nguyên nhân của
các dạng khác nhau của sốt rét và việc kiểm soát nó bằng thuốc kí ninh.
Trong
những năm cuối của cuộc đời, Koch đi tới kết luận là trực khuẩn gây bệnh lao ở
người và bò là khác nhau và tuyên bố của ông về điều này tại Hội nghị Y học quốc
tế về Lao ở Luân Đôn năm 1901 đã gây ra nhiều tranh cãi, nhưng bây giờ thì quan
điểm đấy của ông đã được công nhận là đúng. Công trình nghiên cứu của ông về bệnh
sốt Rickettsia đã dẫn đến ý tưởng mới, rằng căn bệnh này được truyền dễ dàng từ
người sang người hơn là từ nước uống, và vì thế dẫn đến phương pháp kiểm soát bệnh
mới.
Tháng
12 năm 1904, Koch được cử tới vùng Đông Phi của người Đức để nghiên cứu bệnh sốt
ở Bờ Biển Đông trên gia súc và ông đã tiến hành những quan sát quan trọng,
không chỉ với dịch bệnh này mà còn với những loài gây bệnh Babesia và
Trypanosome và bệnh xoắn khuẩn spirochaet có nguồn gốc lây truyền qua ve, bọ;
và tiếp tục công việc của ông trên những sinh vật này khi ông trở về nhà.
Koch
là người đã nhận rất nhiều giải thưởng và huân chương, học vị tiến sĩ danh dự của
Đại học Heidelberg và Bologna, công dân danh dự của thành phố Berlin, Wollstein
và quê hương ông Clausthal, thành viên danh dự của giới khoa học hàn lâm ở
Berlin, Viên, Posen, Perugia, Napoli và New York. Ông cũng được huân chương
danh dự Đức (German Order of the Crown), Bắc đẩu bội tinh của German Order of
the Red Eagle (lần đầu tiên giải thưởng cao quí này được trao cho một người
trong ngành Y) và huân chương của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Rất lâu sau khi ông mất,
ông còn được ghi công bằng tượng đài kỉ niệm và nhiều hình thức khác ở một số
nước.
Năm
1905, ông nhận được giải thưởng Nobel dành cho Sinh lý và Y học. Năm 1906, ông
quay lại Trung Phi để nghiên cứu về việc kiểm soát bệnh trùng mũi khoan
(trypanosomiasis), và ở đó ông đã báo cáo rằng atoxyl có tác dụng chống lại bệnh
này giống như thuốc kí ninh đối với sốt rét. Sau đó Koch tiếp tục công việc thực
nghiệm về vi khuẩn học và huyết thanh học.
Bác
sĩ Koch mất ngày 27 tháng 5 năm 1910 tại Baden-Baden.
14 tháng 11 2013
Jawaharlal Nehru - Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ
Jawaharlal
Nehru (tiếng Hindi: जवाहरलाल नेहरू;
IPA: [dʒəvaːhərlaːl nehruː]; 14 tháng 11 năm 1889 tại Allahabad – 27 tháng 5
năm 1964 tại New Delhi) là một nhà chính trị người Ấn và từ 1947 cho đến 1964
là thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ. Thường được gọi Panditji (Nhà học giả), Nehru
cũng là nhà văn, nhà học giả, là sử gia không chuyên, và là tộc trưởng của gia
tộc Nehru-Gandhi, họ chính trị nổi tiếng nhất ở Ấn Độ. Con gái, Indira Gandhi
cũng là một thủ tướng Ấn Độ.
03 tháng 10 2013
BÙI HUY ÍCH - danh nhân, danh sĩ người Hà Nội
Bùi
Huy Bích (chữ Hán: 裴輝璧; 1744 - 1818), tự là Hy Thương, hiệu là
Tồn Am và Tồn Ông, là một danh nhân, danh sĩ người Hà Nội, từng giữ chức Tham tụng
(tương đương chức thủ tướng) trong triều đình dưới thời vua Lê – chúa Trịnh.
Tuổi
thơ
Ông
sinh ngày 28 tháng Tám năm Giáp Tý (tức 3 tháng 10 năm 1744), quê làng Định
Công, Hà Nội. Ông là cháu 5 đời của Tiên Quận công Bùi Bỉnh Uyên, cháu 7 đời của
Quảng Quận công Bùi Xương Trạch. Cha ông là Bùi Dụng Tân, hiệu Trúc Viên cư sĩ,
dạy học ở nhà.
Bùi
Huy Bích có 1 chị và 1 em trai. Năm ông lên 5 tuổi, mẹ ông mất, cha ông mang 3
chị em lên Hải Dương, ở làng An Lâu, huyện Thanh Miện. Trúc Viên dạy học tại
đó.
Thuở
nhỏ Tồn Am thể chất kém, thường đau ốm luôn, bề ngoài có vẻ "lỗ độn"
nhưng trong lại có khiếu thông minh. Không những Bùi Huy Bích chóng học thuộc
sách mà ngay cả với cuộc sống cũng tỏ ra am hiểu.
Khoa cử
Thuở
nhỏ ông học ở nhà, 17 tuổi theo học Nguyễn Bá Trữ. Năm 19 tuổi (1762), đi thi đỗ
ngay hương cống nhưng trượt thi hội vào năm sau (1763). Ông về học tiếp bảng
nhãn Lê Quý Đôn mở tại kinh thành, nhưng bất mãn trước cảnh xã hội nên không
theo tiếp con đường tiến sỹ.
Để
chiều lòng cha, mãi năm ông 25 tuổi (1770) ông đi thi và đỗ thi hội rồi đỗ thi
đình, đỗ Hoàng giáp.
Làm quan
Sau
khi đỗ, ông được bổ dụng làm Hàn lâm viện hiệu lý, lên chức Thị Chế (năm 1771),
rồi được thụ chức Thiêm sai phủ liêu Tri hộ phiên, kiêm chức Đông các Hiệu thư.
Năm
1777, ông vào lĩnh chức Đốc đồng Nghệ An rồi lại phụng sai vào Thuận Hóa tuyên
dụ. Trong thời gian này ông đã có công bình loạn giặc Mường Thai ở miền tây Nghệ
An.
Sau
công trạng đó, năm 1780 ông được thăng lên Hiệp trấn Nghệ An kiêm thụ lĩnh chức
tham chính. Đến năm Tân Sửu (1781), ông được chúa Trịnh Sâm triệu về triều,
trao cho chức Nhập thị Bồi tụng, chức đứng hàng thứ 2 trong phủ chúa sau chức Bồi
tụng, nhưng ông đệ khải văn xin từ chức, lấy cớ là ốm yếu, dù khi đó mới 38 tuổi
và có quan hệ họ hàng với Trịnh Sâm, nhưng bản thân ông không muốn gần gũi với
Trịnh Sâm.
Ông
là người đã đứng ra can gián Trịnh Sâm khi chúa định bỏ con trưởng Trịnh Tông để
lập con nhỏ Trịnh Cán của Tuyên phi Đặng Thị Huệ được sủng ái, nhưng không
thành. Chính vì Trịnh Sâm lập con nhỏ nên đã xảy ra loạn trong triều sau khi
chúa qua đời.
Trịnh
Tông lật đổ Trịnh Cán lên ngôi, cách chức Tham tụng của Phan Lê Phiên (vì Phiên
cùng phe với mẹ con Trịnh Cán) và mời Bùi Huy Bích ra làm Hành Tham tụng, hy vọng
ông có thể cứu vãn tình thế do loạn kiêu binh gây ra. Sau xảy ra nhiều chuyện,
lại do ngờ vực, ông từ quan về dưỡng bệnh tại phường Bích Câu, Hà Nội, gần đền
Tú Uyên.
Năm
1786, quân Tây Sơn lấy danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh" kéo ra bắc, Trịnh
Tông điều ông ra mặt trận làm chức đốc chiến. Ông định đến đò Thuý Ái để phối hợp
với Hoàng Phùng Cơ chỉ huy thuỷ quân, nhưng chưa đến nơi thì quân Phùng Cơ đã
tan vỡ, quân Tây Sơn thần tốc tiến vào Thăng Long.
Tây
Sơn diệt Trịnh không lâu thì Lê Hiển Tông mất, cháu là Lê Chiêu Thống lên thay,
Nguyễn Huệ rút quân về nam. Chiêu Thống mời Bùi Huy Bích ra giúp nhưng ông xin
từ về quê nhà.
Khi
Nguyễn Huệ lên ngôi vua và đánh tan quân Thanh (1789) có mời các danh thần nhà
Hậu Lê ra giúp nước nhưng ông không hợp tác. Đến đời Nguyễn Ánh, ông được trọng
đãi nhưng ông vẫn xin được sống an nhàn ở quê cho đến khi qua đời ngày 25 tháng
5 năm 1818, thọ 75 tuổi.
Tưởng nhớ
Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, tên của Bùi Huy Bích được chính quyền Hà Nội đặt
cho phố Sinh Từ (thời Pháp thuộc). Đến thời tạm chiếm, phố Bùi Huy Bích trở lại
tên cũ là phố Sinh Từ, và đến năm 1964, phố Sinh từ lại được đổi thành phố Nguyễn
Khuyến.
Năm
2012 Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội đặt tên đường Bùi Huy Bích cho con đường
từ đường vành đai 3 rẽ vào khu tái định cư X1 Pháp Vân thuộc phường Hoàng Liệt,
quận Hoàng Mai. Trung tâm hành chính quận Hoàng Mai nằm trên con đường này.
Thơ văn
Bùi
Huy Bích viết nhiều, trong đó thơ của ông để lại ba bộ, tổng cộng 681 bài thơ.
Bích
Câu thi tập, gồm 2 tập là tiền tập và hạ tập.
Nghệ
An thi tập gồm 2 tập
Thoái
hiên thi tập gồm 3 tập.
Về văn có:
Tồn
Am văn cảo
Lữ
trung tạp thuyết
Các
tập văn thơ ông sưu tập và hợp tuyển: ghi chép từ thời Lý Trần đến thời Lê Hiển
Tông:
Hoàng
Việt thi tuyển: gồm 562 bài của 167 tác giả.
Hoàng
Việt văn tuyển: 112 bài, gồm 15 bài phú, 15 bài ký, 9 bài tế, 9 bài minh, 25
bài chiếu chế, 22 bài khải, 11 bài tản văn, 6 bài biểu tấu.
Thơ
văn của ông phần nhiều tự sự về nhân tình thế thái, tự phê phán bản thân bất lực
không làm được gì nhiều giúp dân giúp nước; đồng thời công kích sư sa đoạ của kể
sĩ và quan lại đương thời và phê phán quan điểm lệch lạc của các nhà Nho. Bùi
Huy Bích không đồng nhất quan điểm cho rằng từ thời Sĩ Nhiếp Việt Nam mới có chữ
viết mà ông cho rằng Việt Nam đã có chữ viết trước đó nhiều.
Giai thoại
Khi
Bùi Huy Bích còn nhỏ, ở làng có đám ma. Huy Bích đứng gần người đề chủ[7]. Khi
làm lễ, người đề chủ chuẩn bị viết thì mới phát hiện nghiên mực khô khốc. Liếc
sang thấy cậu bé Bích đứng gần, ông đề chủ hất hàm ra hiệu. Thấy cạnh nghiên có
chén đầy nước, Bùi Huy Bích cầm lấy chén nhưng không đổ cả vào nghiên mà lại nhặt
một thoi vàng hồ, chọc thủng một mặt rồi dùng thoi vàng lấy từng ít nước đổ vào
nghiên.
Thi
lễ xong, ông đề chủ rất khen ngợi cậu bé Bích và mời ngồi cùng vào chiếu rượu
dành riêng cho ông. Ông giảng giải:
Chén
nước đầy mà nghiên mực thì nông. Kẻ xốc nổi sẽ cầm cả chén mà rót và thế thì nước
sẽ tung toé ra, mất trang nghiêm. Kẻ chậm chạp thì chạy đi lấy thìa và như thế
thì nghi lễ bị dở dang. Thoi vàng không phải là thứ múc nước, vậy mà cậu bé biết
biến báo thành ra được việc.
05 tháng 6 2013
LÊ ANH XUÂN - NHÀ THƠ, ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
Lê
Anh Xuân (1940-1968) là một nhà thơ Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng
Giải thưởng Nhà nước và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì những
đóng góp của mình.
Thân thế
Ông
tên thật là Ca Lê Hiến, sinh ngày 5 tháng 6 năm 1940 tại thị xã Bến Tre, nguyên
quán ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày (nay thuộc huyện Mỏ Cày Bắc), tỉnh Bến
Tre. Cha ông là giáo sư Ca Văn Thỉnh, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học. Các
thành viên trong gia đình ông cũng đều là những nhà giáo, nghệ sĩ được biết tới.
Anh trai ông là nhạc sĩ Ca Lê Thuần, em gái là nữ đạo diễn Ca Lê Hồng - nguyên
hiệu trưởng trường Nghệ thuật Sân khấu II Thành phố Hồ Chí Minh, em trai là họa
sĩ Ca Lê Thắng.
Sự
nghiệp
Ông
sớm tiếp xúc với văn thơ từ nhỏ, năm 12 tuổi bắt đầu vừa học văn hóa, vừa học
việc ở nhà in Trịnh Đình Trọng thuộc Sở Giáo dục Nam Bộ trong chiến khu.
Năm
1954, ông theo gia đình tập kết ra Bắc, học ở các trường học sinh miền Nam, Trường
phổ thông trung học Nguyễn Trãi (Hà Nội), rồi vào học khoa Sử, Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Bài thơ đầu tiên ra mắt bạn đọc, Nhớ mưa quê hương với dòng cảm xúc
thương nhớ da diết miền Nam, đã chiếm được cảm tình của độc giả và đoạt giải
nhì trong cuộc thi thơ năm 1960 của tạp chí Văn nghệ. Tốt nghiệp đại học, Lê
Anh Xuân được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở khoa Sử và được cử đi nghiên cứu
sinh ở nước ngoài nhưng ông từ chối để trở về quê hương chiến đấu.
Cuối
năm 1964, ông vượt Trường Sơn vào miền Nam, làm việc ở Tiểu ban Giáo dục thuộc
Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam và sau đó là Hội Văn nghệ Giải phóng miền
Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu sử dụng bút danh Lê Anh Xuân[1]. Năm
1966, ông tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài làm thơ, ông còn viết cả văn
xuôi.
Lê
Anh Xuân hy sinh ngày 21 tháng 5 năm 1968 tại ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện
Cần Đước, tỉnh Long An trong một trận càn của quân đội Mỹ.
Vinh danh
Tên
ông được đặt cho một con đường tại Quận 1.
Năm
2001, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Năm
2011, ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân
Tác phẩm
Tiếng
gà gáy (thơ, 1965)
Không
có đâu như ở miền Nam (thơ, in chung, 1968)
Nguyễn
Văn Trỗi (trường ca, 1968)
Hoa
dừa (thơ, 197l)
Thơ
Lê Anh Xuân (tuyển thơ, 198l)
Giữ
đất (tập văn xuôi-1966)
Thành tựu nghệ thuật
Trong
cuộc đời ngắn ngủi của mình, Lê Anh Xuân đã sáng tác khá nhiều bài thơ chủ yếu
thể hiện tình yêu đối với quê hương đất nước, đặc biệt là vùng quê Bến Tre của
mình. Những bài thơ: Nhớ mưa quê hương, Trở về quê nội, Gửi miền Bắc,... được độc
giả yêu mến. Bài thơ cuối cùng của ông sáng tác năm 1968: Dáng đứng Việt Nam được
coi là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về người lính Quân đội Nhân dân
Việt nam đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt Nam:
...
Từ
dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ
quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHIẾN LƯỢC GIA
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DIỄN VIÊN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- DONALD TRUMP
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KINH TẾ GIA
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI PHÁT MINH
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆ
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ CỐ VẤN
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ GIÁO
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÀNH LỘC
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
BÀI VIẾT
-
▼
2024
(43)
-
▼
tháng 11
(8)
- Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 20...
- Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng ...
- Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia n...
- Nguyên Hồng - Nhà văn người Việt Nam
- Duy Quang - ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam
- Thành Lộc - Diễn viên Việt Nam
- Fritz Hofmann - Nhà hóa học Người Đức
- Tim Cook - Doanh nhân người Mỹ - Hiện là Tổng Giám...
-
▼
tháng 11
(8)
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia