26 tháng 4 2013
Thomas Robert Malthus, (13 tháng 2, 1766 – 23 tháng 12, 1834), hội viên FRS, là một nhà nhân khẩu học, nhà kinh tế học người Anh. Ông là một trong những đại biểu của kinh tế học cổ điển. Ông sống cùng thời với David Ricardo, là bạn thân và cũng là đối thủ về lý luận của Ricardo. Malthus có nhiều đóng góp vào các học thuyết kinh tế và các đóng góp vào lĩnh vực dân số, đặc biệt là vấn đề sự gia tăng dân số thông qua Thuyết dân số của ông.
Đời sống cá nhân
Thomas Robert Malthus, là con thứ hai trong tám người con của Daniel và Henrietta Malthus, một gia đình thành đạt, cha của ông là bạn của nhà triết học David Hume và cũng có quen biết Jean-Jacques Rousseau. Thời trẻ ông được giáo dục tại nhà đến khi ông được vào Trường dòng của Đại học Cambridge năm 1784. Ở trường, ông đã nổi tiếng là một sinh viên xuất sắc. Ông nhận được các giải về các bài diễn thuyết, tiếng Latin và tiếng Hy lạp, nhưng chuyên ngành chính của ông là toán học. Ông tốt nghiệp năm 1788 và nhận bằng thạc sĩ năm 1791. Hai năm sau đó, ông trở thành giáo viên của trường.
Malthus kết hôn với Harriet Eckersall vào năm 1804, và có ba người con: Henry, Emily và Lucy. Năm 1805 ông trở thành giáo sư, giảng viên kinh tế chính trị người Anh đầu tiên của trường East India Company College thuộc Hertford Heath và giữ chức vụ này đến cuối đời. Các sinh viên của ông thường viết tên ông một cách trừu mến "Pop" hay "Population" Malthus (Malthus "dân số"). Năm 1818, Malthus trở thành hội viên của Hội Hoàng gia.
Ông mất năm 1834, thọ 68 tuổi và được chôn cất tại Bath Abbey ở Anh.
Thuyết dân số
Năm 1798, quyển sách của mục sư trẻ tuổi T. Malthus: “Kinh nghiệm về quy luật dân số” ra đời và chịu nhiều công kích. Vì vậy từ năm 1799-1802 T. Malthus đi du lịch các nước châu Âu để thu thập thêm kiến thức. 5 năm sau ông cho tái bản quyển sách trên với lời tựa khẳng định quan điểm chính không thay đổi: “Liên quan đến đến ý tưởng của tôi, tôi tin rằng, sẽ không có cải chính điều trước đây. Theo quan điểm đó cũng cần phải công nhận rằng, nghèo đói và khốn cùng của những tầng lớp thấp của xã hội là điều ác khó chữa. Nhưng nếu có điều gì sai lầm, ngoài ý muốn của tôi, tiềm ẩn trong nghiên cứu này, thì chúng không thể có ảnh hưởng lớn đến bản chất những trình bày của tôi”.
Ý nghĩa khoa học trong “Kinh nghiệm về quy luật dân số” là sự tiên đoán về những xu hướng kinh tế xã hội liên quan đến tăng dân số, là cơ sở lý luận cho các nghiên cứu sau này. Lý thuyết của T. Malthus chỉ ra nguyên nhân của nghèo đói bằng một tỷ lệ đơn giản giữa tốc độ tăng trưởng dân số với tốc độ tăng trưởng của cải – tương ứng với mức sống tối thiểu. Nội dung chính được thể hiện như sau: Trong điều kiện thuận lợi, dân số, nếu tăng theo cấp số nhân sẽ đạt số lượng gấp đôi sau 20-25 năm, còn sản xuất thực phẩm và đồ tiêu dùng cần thiết chỉ tăng theo cấp số cộng, thì (dân số) sẽ không thể tăng thêm với tốc độ đó nữa. Khi đó, do bùng nổ dân số, nghèo đói sẽ đe dọa vận mệnh toàn nhân loại. Về mặt này T. Malthus chịu ảnh hưởng của lý thuyết phổ biến thời bấy giờ - quy luật giảm dần sự màu mỡ của đất. Đến năm 1826, cuốn sách của ông được tái bản lần thứ sáu.
Tuy nhiên các tính toán của ông đã không hoàn toàn phù hợp với thực tế, vì trong hai thế kỷ gần đây tốc độ tăng dân số vẫn xảy ra mà không bị cản trở bởi nghèo đói.
Về căn bản, ý tưởng trong tác phẩm trên không được các nhà Marxist công nhận. Họ cho đó chỉ là sự ngu dốt, vô tích sự, hoàn toàn biện hộ. Chịu công kích nhiều nhất là ý tưởng trọng tâm về sự ảnh hưởng của số dân và tốc độ tăng dân số lên phồn thịnh xã hội. Mặt dù T. Malthus chỉ đưa ra một dự đoán bi quan về số phận loài người và một đề xuất mang tính đạo đức, nhưng các nhà Marxist nhận thấy trong ý tưởng đó một nguyên cớ cho hành động của các thế lực phát xít.
Để bảo vệ cho lý thuyết của T. Malthus, các nhà nghiên cứu khác cho rằng ông đã nêu lên một vấn đề mang tính thời sự, và sử dụng lý thuyết này như một gợi ý cho việc tiến hành các chương trình cải cách xã hội. Chính ông cũng viết: “Bất kì bạn đọc nào cũng nên công nhận rằng, có thể có những sai lầm, nhưng mục đích thực tiễn mà tác giả của công trình này theo đuổi, là muốn cải thiện việc tham dự và tăng thêm hạnh phúc của các giai cấp xã hội thấp kém”.
Mặc dù ông không để ý tới sự điều chỉnh dân số qua việc sử dụng các dụng cụ tránh thai, nhưng gợi ý về một biện pháp như vậy là kết quả tự nhiên có được từ các ý tưởng của ông. Người đầu tiên tuyên truyền sử dụng rộng rãi các dụng cụ tránh thai để tránh sự bùng nổ dân số là Francis Place, khi đọc thuyết của Malthus, Place đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ và ông đã viết một quyển sách về các biện pháp tránh thai năm 1822.
Thuyết dân số của ông cũng có ảnh hưởng quan trọng vào các học thuyết kinh tế. Các nhà kinh tế bị ảnh hưởng bởi Malthus đã kết luận rằng, dưới những điều kiện bình thường, bùng nổ dân số làm giảm đáng kể mức lương tồn tại.
Quan điểm của Malthus còn ảnh hưởng tới những nghiên cứu về sinh học. Charles Darwin tuyên bố ông đã đọc Thuyết dân số và điều này mang đến cho ông một gạch nối quan trọng trong thuyết tiến hoá bằng chọn lọc tự nhiên.
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị, ông viết một số quyển sách, quan trọng nhất là cuốn Những nguyên tắc của kinh tế chính trị (1820). Đây là quyển sách có ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà kinh tế học sau này, đặc biệt là John Maynard Keynes một nhà kinh tế lỗi lạc của thế kỷ 20.
Về mặt phương pháp luận, tác phẩm này không có gì khác so với tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị” của D. Ricardo đã xuất bản trước đó ba năm.
25 tháng 4 2013
JOHN STUART MILL - Nhà triết học và kinh tế chính trị người Anh
John Stuart Mill (20 tháng 5, 1806 – 8 tháng 5, 1873) là một nhà triết học và nhà kinh tế chính trị học người Anh. Ông là một triết gia theo đường lối tự do có ảnh hưởng lớn của thế kỉ 19. Ông là người tán thành chủ nghĩa công lợi, học thuyết đạo đức do Jeremy Bentham đưa ra lần đầu tiên.
Ông là một nhân vật mẫu mực cho những người tự do và dân chủ xã hội ở Anh quốc trong hơn 150 năm. Trong cuốn tiểu sử mới của Mill, Richard Reeves cho rằng ảnh hưởng của ông đến hệ tư tưởng thế kỷ XXI thậm chí sẽ còn nhiều hơn những tác động về mặt tư tưởng của ông trong cuộc tranh đấu vô cùng cam go chi phối toàn bộ đời sống thế giới nửa cuối thế kỷ XX giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Dự báo này có cơ sở của nó. Mill là một trong những bậc thầy vĩ đại được Thủ tướng Anh Gordon Brown tôn vinh trong diễn văn của ông về sự tự do ở Anh quốc vài tuần trước đây và các nghiên cứu về Mill vẫn tiếp tục được mở rộng.
Giải thích cho việc Mill luôn được quan tâm trên cả phương diện cá nhân lẫn xã hội đó là về mặt nhân cách cá nhân, ông là một người vô cùng nhã nhặn, có trái tim nhân ái, một quý ông trí thức, một người tài ba. Ai có thể nào không quý mến con người này. Cuộc đời mẫu mực của ông - một hình mẫu cao nhất cho tính nghiêm chỉnh thời nữ hoàng Victoria - vẫn còn được yêu thích và ngưỡng mộ. Nền giáo dục khủng khiếp mà ông tiếp thu, dưới sự chỉ dẫn của người cha khắt khe và giáo điều - một con người dường như không hề có khiếu hài hước và không từng cảm thông với người khác, là một huyền thoại. Ba tuổi ông học bảng chữ cái Hy Lạp, bảy tuổi đọc Plato (bằng tiếng Hy Lạp), học tiếng Latin năm tám tuổi và đọc logic của Aristotle năm mười một tuổi. Sự suy sụp vào năm 20 tuổi của ông cũng là một huyền thoại. Thời gian đó ông tự hỏi mình liệu ông có hạnh phúc hơn nếu mọi cải cách mà ông và cha tin tưởng thành hiện thực và ông kinh hoàng nhận ra rằng câu trả lời là “không”.
Tầm trí tuệ của Mill cũng làm người ta kinh ngạc như nền giáo dục mà ông thụ hưởng. Tác phẩm Các hệ thống logic (1843) và Những nguyên lý của kinh tế chính trị (1848) là những cuốn sách bán chạy nhất thời đó, mỗi cuốn được tái bản bảy lần. Tiểu luận “Bàn về Tự do” (1859) chắc chắn là tác phẩm chính trị nổi tiếng nhất ở Anh quốc. Nhưng Mill không phải một nhà lý luận tháp ngà. Ông là thành viên Quốc hội trong ba năm và là một thành viên đặc biệt nhất (cuốn hút nhất) của Hạ Nghị viện.
Ông không bỏ tiền vào cuộc vận động tranh cử cho mình, và khi bị chất vấn tại một hội nghị với phần đông là giai cấp lao động, ông đã từ chối rút lại lời chỉ trích rằng những giai cấp lao động là “những kẻ quen thói dối trá”. Mặc dù vậy, những thành công của ông với cương vị một thành viên quốc hội là đáng kể. Sửa đổi nổi tiếng của ông vào Dự luật Cải cách 1867 – thay từ “người - person” cho từ “người (đàn ông) - man” – đã cho phụ nữ quyền bầu cử 50 năm trước khi họ thực sự giành được quyền này, lần đầu tiên đem sự nghiệp quyền bầu cử của nữ giới lên chương trình nghị sự của chính giới... Ông là người trọn đời đấu tranh cho nữ quyền, vào tù vì ủng hộ cho việc kiểm soát sinh đẻ (chỉ trong hai ngày), đấu tranh cho cải cách ở vùng đất của người Ireland và cổ vũ cho một hình thức chủ nghĩa xã hội thị trường, dựa trên hợp tác xã của những người lao động.
Mối tình bền lâu của ông cùng Harriet Taylor - vợ của một dược sĩ thành đạt có khuynh hướng chính trị cực đoan - tạo ra những câu chuyện trong văn học Anh.
Không có gì phải nghi ngờ rằng Mill đã đứng bên phía chính nghĩa trong những cuộc tranh đấu chính trị lớn nhất thời đại ông. Ông đã đấu tranh cho phụ nữ, cho người Ireland, cho Đạo luật Cải cách 1832 và 1867, cho cách mạng 1848, ủng hộ những người miền Bắc trong cuộc nội chiến ở Mỹ, cho cuộc vận động thành lập hợp tác xã. Ông chống lại chế độ quý tộc, phản đối những thu nhập không làm mà có, chống lại Napoleon III, chống lại sự buôn bán, khai thác, tàn nhẫn, bất công ở bất cứ đâu... Mill không chỉ là một nhà tư tưởng mà còn là một con người hành động.
Cuộc đời
John Stuart Mill sinh ngày 20 tháng 5, 1806 là con cả của gia đình ông James Mill và bà Harriet Murrow với 9 người con. Sự phát triển cá nhân của ông chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi cha ông, một người tiêu biểu cho trường phái Công lợi quá khích và xem việc dạy dỗ của John Stuart, một người rất thông minh, như là một "cuộc thi đua để tạo nên một nhân tài".
Từ lúc 3 tuổi John Stuart đã được dạy những bài học đầu tiên bằng tiếng Cổ Hy lạp, lúc 10 tuổi ông đã giỏi về tiếng La tin ngang hàng với trình độ đại học, sau này ông còn học thêm tiếng Pháp và tiếng Đức.
Từ hồi nhỏ ông đã đọc những chuyện ngụ ngôn của Äsop từ bản chính, sau đó Anabasis của Xenophon, Herodot, Diogenes, Lukian và Isokrates, lúc 7 tuổi đã đọc những cuộc đối thoại đầu tiên của Platon. Dưới sự giám sát nghiêm khắc của cha, ông bắt đầu học số học.
Trong giờ giải lao ông đọc Plutarch và Humes“Lịch sử Vương quốc Anh”. Lúc 8 tuổi ông đã bắt đầu dạy cho các em mình tiếng La tin. Hồi 13 tuổi ông đã tìm hiểu kinh tế chính trị, đặt biệt là những lý thuyết của Adam Smith và David Ricardo. Khi được 14 tuổi ông đi học ở Montpellier về các bộ môn Hóa học, Động vật học, Toán, Luận lý học và Siêu hình học.
Sau 14 năm lớn lên được dạy dỗ không có tiếp xúc với những người đồng lứa tuổi, ông có cơ hội để làm bạn với em trai ông Bentham (Sir Samuel Bentham) tại Pháp gần thành phố Toulouse, cũng như có điều kiện để tham dự những hoạt động thể thao như cỡi ngựa, bơi lội, đánh kiếm và nhảy đầm. Cùng thời đó ông khám phá tại vùng Pyrenäen cái thói đâm mê của mình cho Thực vật, cái mà ông đã lấy làm thú tiêu khiển cho mình đến suốt cuộc đời.
Tác Phẩm
· Hệ thống logic (A system of logic, 1843)
· Các nguyên lý của kinh tế chính trị học (Principles of political economy, 1848)
· Bàn về tự do (On liberty, 1859)
· Chính thể đại diện (Considerations on representative government, 1861)
· Chủ nghĩa công lợi (Utilitarianism, 1863)
· Khảo cứu triết học của ngài William Hamilton (An examination of sir William Hamilton's Philosophy, 1865)
24 tháng 4 2013
STEPHEN COVEY - Nhà giáo dục, nhà văn, doanh nhân và diễn giả nổi tiếng
Stephen Richards Covey hay thường được gọi là Stephen R Covey (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1932 - mất ngày 16 tháng 7 năm 2012) là một nhà giáo dục, nhà văn, nhà kinh doanh và nhà diễn giả của Mỹ, ông được biết đến với cuốn sách nổi tiếng 7 thói quen của người thành đạt (The Seven Habits of Highly Effective People) cuốn sách gối đầu giường của các nhà lãnh đạo cũng như các tỉ phú thế giới.
S.R. Covey từng ở trong danh sách một trong 25 người Mỹ có ảnh hưởng nhất vào năm1996 do tạp chí Time bầu chọn. Ông luôn nhấn mạnh nhấn mạnh sự chân thật, chính trực, tin cậy, nhân ái, tinh thần cống hiến và sự tôn trọng là những giá trị cốt lõi làm nên người thành đạt.
Sự nghiệp
Stephen R. Covey sinh năm 1931 tại Utah (Mỹ), khi ở tuổi 20, ông từng tạm dừng việc học trong một thời gian để làm công việc tình nguyện. Sau đó ông khởi đầu sự nghiệp là giảng viên tại trường Đại học Brigham Young ở Utah.
Stephen Covey rời công việc giảng dạy năm 1984 để thành lập Trung tâm lãnh đạo Covey, và nhanh chóng trở thành tác giả nổi tiếng, diễn giả và nhà tư vấn có ảnh hưởng toàn thế giới.
Các tác phẩm
Cuốn sách 7 thói quen để thành đạt được ông viết vào năm 1989 đến nay đã bán được hơn 20 triệu bản trên thế giới, được dịch ra 40 ngôn ngữ khác nhau. Năm 2002, tạp chí Forbes đã đưa nó vào danh sách 10 cuốn về quản trị có ảnh hưởng nhất trên thế giới từ trước tới nay.
Ông còn có các tác phẩm khác như:
· First things first (Tư duy tối ưu)
· Principle centered leadership (Nghệ thuật lãnh đạo theo nguyên tắc)
· The 7 habits of highly effective family (7 thói quen tạo gia đình hạnh phúc)
· The 8th habits (Thói quen thứ 8)
· The speed of truth (Tốc độ của niềm tin)…
Qua đời
Stephen Richards Covey qua đời vào ngày 16 tháng 7 năm 2012. Ông qua đời do sức khỏe yếu đi từ khi bị tai nạn xe đạp từ hồi tháng 4 năm 2012. Ông mất kiểm soát khi đang đi xe đạp xuống đồi ở Provo, Utah và vào viện điều trị hai tháng vì chấn thương đầu, gãy xương sườn và giập phổi.
Bạn muốn nhận quyển sách 7 THOI QUEN ĐỂ THÀNH ĐẠT (của tác giả Stephen Covey) miễn phí qua Email và tin nhắn SMS. Vui lòng nhấp vào đây.
David Ricardo - Nhà kinh tế học người Anh
David Ricardo (18 tháng 4, 1772–11 tháng 9, 1823) là một nhà kinh tế học người Anh, có ảnh hưởng lớn trong kinh tế học cổ điển sánh ngang cùng Adam Smith và Thomas Malthus. David Ricardo là người cổ vũ thương mại tự do dựa trên lý luận với lợi thế so sánh. Ông đã tiếp bước Adam Smith và đóng góp lớn vào việc phát triển thuyết giá trị lao động. Các lý luận của ông đã ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng kinh tế của Karl Marx. David Ricardo cũng là một thương gia, chuyên gia tài chính, nhà đầu cơ, ông được coi là người đã tích lũy được một tài sản lớn.
Đời sống cá nhân
Ricardo sinh ra ở London, là con thứ ba trong số bẩy người con của một gia đình người Do Thái nhập cư từ Hà Lan đến Đế quốc Anh trước khi ông được sinh ra. Khi 14 tuổi, sau một khóa học ngắn ở Hà Lan, Ricardo đã tham gia công việc cùng với cha của ông ở Sở giao dịch chứng khoán London, nơi ông bắt đầu học về các công việc tài chính. Đây là nền tảng cho các thành công sau đó của ông trong thị trường chứng khoán và kinh doanh bất động sản.
Các tư tưởng
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ricardo là Principles of Political Economy and Taxation (Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa). Ricardo đưa ra trong chương đầu tiên với một công bố về thuyết giá trị lao động. Trong phần sau của chương này, ông giải thích về việc giá cả không phù hợp, tương ứng với giá trị. Ricardo cũng đã phân tích và đi tới kết luận rằng khi dân số gia tăng thì địa tô cũng gia tăng theo. Trong tác phẩm này, Ricardo còn đưa ra luận điểm rằng một hệ thống thương mại tự do cho tất cả các quốc gia sẽ đem lại lợi ích cho mỗi quốc gia.
23 tháng 4 2013
ISAAC NEWTON - Nhà vật lý, thiên văn học, triết học,toán học, thần học và nhà giả kim thuật người Anh
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, được nhiều người cho rằng
là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn nhất. Theo lịch
Julius, ông sinh ngày 25 tháng
12năm 1642 và mất ngày 20 tháng 3 năm 1727;
theo lịch Gregory, ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1643 và mất ngày 31 tháng 3 năm 1727.
Luận thuyết của ông
về Philosophiae Naturalis
Principia Mathematica (Các
Nguyên lý Toán học của Triết lý về Tự nhiên) xuất bản năm 1687, đã mô tả về vạn vật hấp dẫn và 3 định
luật Newton, được coi là nền tảng của cơ
học cổ điển, đã thống trị các quan niệm về vật lý, khoa học trong suốt 3 thế kỷ
tiếp theo. ông cho rằng sự chuyển động của các vật thể trên mặt đất và các vật
thể trong bầu trời bị chi phối bởi các định luật tự nhiên giống nhau; bằng cách
chỉ ra sự thống nhất giữa Định
luật Kepler về sự chuyển động của hành tinh và
lí thuyết của ông về trọng lực, ông đã loại bỏ hoàn toàn Thuyết nhật tâm và theo đuổi cách mạng khoa học.
Trong cơ học, Newton
đưa ra nguyên lý bảo toàn động lượng (bảo toàn quán tính). Trong quang học, ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng
kính trở thành nhiều màu.
Trong toán học,
Newton cùng với Gottfried Leibniz phát triển phép tính vi phân và tích
phân. Ông cũng đưa ra nhị thức
Newton tổng quát.
Năm 2005,
trong một cuộc thăm dò ý kiến của Hội Hoàng gia về
nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử khoa học, Newton vẫn là người
được cho rằng có nhiều ảnh hưởng hơn Albert Einstein.[3]
Sự nghiệp
Isaac Newton sinh ra
trong một gia đình nông dân. May mắn cho nhân loại, Newton không làm ruộng giỏi
nên được đưa đến Đại học
Cambridge để trở thành luật sư. Tại Cambridge, Newton bị ấn
tượng mạnh từ trường phái Euclid,
tuy rằng tư duy của ông cũng bị ảnh hưởng bởi trường phái của Roger Bacon và René
Descartes. Một đợt dịch bệnh đã khiến trường Cambridge đóng cửa và trong thời
gian ở nhà, Newton đã có những phát kiến khoa học quan trọng, dù chúng không
được công bố ngay.
Những người có ảnh
hưởng đến việc công bố các công trình của Newton là Robert Hooke và Edmond
Halley. Sau một cuộc tranh luận về chủ đề quỹ
đạo của một hạt khi
bay từ vũ trụ vào Trái
Đất với Hooke, Newton đã bị cuốn
hút vào việc sử dụng định luật
vạn vật hấp dẫn và cơ học của ông trong tính toán quỹ đạo Johannes Kepler. Những kết quả này hấp
dẫn Halley và ông đã thuyết phục được Newton xuất bản chúng. Từ tháng 8 năm 1684 đến mùa
xuân năm 1688, Newton hoàn thành tác phẩm, mà
sau này trở thành một trong những công trình nền tảng quan trọng nhất cho vật lý của mọi thời đại, cuốn Philosophiae Naturalis Principia
Mathematica (Các Nguyên lý
Toán học của Triết lý về Tự nhiên).
Trong quyển I của
tác phẩm này, Newton giới thiệu các định
nghĩa và ba định luật của chuyển động thường được biết với
tên gọi sau này là Định luật
Newton. Quyển II trình bày các phương
pháp luận khoa học mới của Newton
thay thế cho triết lý Descartes.
Quyển cuối cùng là các ứng dụng của lý thuyết động
lực học của ông, trong đó có sự
giải thích về thủy triều và lý thuyết về sự chuyển động của Mặt Trăng. Để kiểm chứng lý thuyết về
vạn vật hấp dẫn của ông, Newton đã hỏi nhà
thiên văn John Flamsteed kiểm tra xem Sao Thổ có chuyển động chậm lại mỗi lần đi gần Sao Mộc không. Flamsteed đã rất sửng sốt nhận
ra hiệu ứng này có thật và đo đạc phù hợp với các tính toán của Newton. Các phương trình của Newton được củng cố thêm bằng kết
quả quan sát về hình dạng bẹt của Trái Đất tại hai cực, thay vì lồi ra tại hai
cực như đã tiên đoán bởi trường phái Descartes. Phương trình của Newton cũng
miêu tả được gần đúng chuyển động Mặt Trăng, và tiên đoán chính xác thời điểm
quay lại của sao chổi Halley.
Trong các tính toán về hình dạng của một vật ít gây lực cản nhất khi nằm trong
dòng chảy của chất lỏng hay chất khí, Newton cũng đã viết ra và giải được bài
toán giải tích biến phân đầu tiên của thế giới.
Newton sáng tạo ra
một phương pháp khoa học rất tổng quát. Ông trình bày phương pháp luận của ông
thành bốn quy tắc của lý luận khoa học. Các quy tắc này được phát biểu trong
quyển Philosophiae Naturalis
Principia Mathematica như
sau:
1.
Các hiện tượng tự nhiên phải được giải thích
bằng một hệ tối giản các quy luật đúng, vừa đủ và chặt chẽ.
2.
Các hiện tượng tự nhiên giống nhau phải có
cùng nguyên nhân như nhau.
3.
Các tính chất của vật chất là như nhau trong
toàn vũ trụ.
4.
Một nhận định rút ra từ quan sát tự nhiên chỉ
được coi là đúng cho đến khi có một thực nghiệm khác mâu thuẫn với nó.
Bốn quy tắc súc tích và tổng
quát cho nghiên cứu khoa học này đã là một cuộc cách mạng về tư duy thực sự vào
thời điểm bấy giờ. Thực hiện các quy tắc này, Newton đã hình thành được các
định luật tổng quát của tự nhiên và giải thích được gần như tất cả các bài toán
khoa học vào thời của ông. Newton còn đi xa hơn việc chỉ đưa ra các quy tắc cho
lý luận, ông đã miêu tả cách áp dụng chúng trong việc giải quyết một bài toán
cụ thể. Phương pháp giải tích mà ông sáng tạo vượt trội các phương pháp mang
tính triết lý hơn là tính chính xác khoa học của Aristoteles và Thomas
Aquinas. Newton đã hoàn thiện phương pháp thực nghiệm của Galileo
Galilei, tạo ra phương pháp tổng hợp vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay
trong khoa học. Những câu chữ sau đây trong quyển Opticks(Quang
học) của ông có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với trình bày hiện đại của phương pháp
nghiên cứu thời nay, nếu Newton dùng từ "khoa học" thay cho
"triết lý về tự nhiên":
Cũng như trong toán học, trong
triết lý về tự nhiên, việc nghiên cứu các vấn đề hóc búa cần thực hiện bằng
phương pháp phân tích và tổng hợp. Nó bao gồm làm thí nghiệm, quan sát, đưa ra
những kết luận tổng quát, từ đó suy diễn. Phương pháp này sẽ giúp ta đi từ các
hợp chất phức tạp đến nguyên tố, đi từ chuyển động đến các lực tạo ra nó; và
tổng quát là từ các hiện tượng đến nguyên nhân, từ nguyên nhân riêng lẻ đến
nguyên nhân tổng quát, cho đến khi lý luận dừng lại ở mức tổng quát nhất. Tổng
hợp lại các nguyên nhân chúng ta đã khám phá ra thành các nguyên lý, chúng ta
có thể sử dụng chúng để giải thích các hiện tượng hệ quả.
Newton đã xây dựng
lý thuyết cơ học và quang
học cổ điển và sáng tạo ra giải tích nhiều năm trước Gottfried Leibniz. Tuy nhiên ông đã
không công bố công trình về giải tích trước Leibniz.
Điều này đã gây nên một cuộc tranh cãi giữa Anh và lục địa châu Âu suốt nhiều thập kỷ về việc ai đã sáng
tạo ra giải tích trước. Newton đã phát hiện ra định lý nhị thức đúng cho các
tích của phân số, nhưng ông đã để cho John
Wallis công bố. Newton đã tìm ra
một công thức cho vận tốc âm thanh, nhưng không phù hợp với kết quả thí nghiệm
của ông. Lý do cho sự sai lệch này nằm ở sự giãn nở đoạn nhiệt, một khái niệm
chưa được biết đến thời bấy giờ. Kết quả của Newton thấp hơn γ½ lần thực tế, với γ là tỷ lệ các nhiệt dung của không khí.
Theo quyển Opticks, mà Newton đã chần chừ
trong việc xuất bản mãi cho đến khi Hooke mất, Newton đã quan sát thấy ánh sángtrắng bị chia thành phổ nhiều màu sắc, khi đi qua lăng kính (thuỷ tinh của lăng kính có chiết suất thay đổi tùy màu). Quan điểm hạt về
ánh sáng của Newton đã xuất phát từ các thí nghiệm mà ông đã làm với lăng kính
ở Cambridge. Ông thấy các ảnh sau lăng kính có hình bầu dục chứ không tròn như
lý thuyết ánh sáng thời bấy giờ tiên đoán. Ông cũng đã lần đầu tiên quan sát
thấy các vòng giao thoa mà ngày nay gọi là vòng Newton, một bằng chứng của tính
chất sóng của ánh sáng mà Newton đã không công nhận. Newton đã cho rằng ánh
sáng đi nhanh hơn trong thuỷ tinh, một kết luận trái với lý thuyết sóng ánh
sáng của Christiaan Huygens.
Newton cũng xây dựng
một hệ thống hoá học trong mục 31 cuối quyển Opticks. Đây cũng là lý thuyết
hạt, các "nguyên tố" được coi như các sự sắp xếp khác nhau của những
nguyên tử nhỏ và cứng như các quả bi-a.
Ông giải thích phản ứng hoá học dựa vào ái lựcgiữa các thành phần tham gia
phản ứng. Cuối đời (sau 1678) ông
thực hiện rất nhiều các thí nghiệm hoá
học vô cơ mà không ra kết quả gì.
Newton rất nhạy cảm
với các phản bác đối với các lý thuyết của ông, thậm chí đến mức không xuất bản
các công trình cho đến tận sau khi người hay phản bác ông nhất là Hooke mất.
Quyển Philosophiae Naturalis
Principia Mathematica phải
chờ sự thuyết phục của Halley mới ra đời.
Ông tỏ ra ngày càng
lập dị vào cuối đời khi thực hiện các phản ứng hoá học và cùng lúc xác định
ngày tháng cho các sự kiện trong Kinh
Thánh. Sau khi Newton qua đời, người ta tìm thấy một lượng lớn thuỷ ngân trong cơ thể của ông, có thể bị nhiễm
trong lúc làm thí nghiệm. Điều này hoàn toàn có thể giải thích sự lập dị của
Newton.
Newton đã một mình
đóng góp cho khoa học nhiều hơn bất cứ một nhân vật nào
trong lịch sử của loài người. Ông đã vượt trên tất cả những bộ óc khoa học lớn
của thế giới cổ đại, tạo nên một miêu tả cho vũ trụ không tự mâu thuẫn, đẹp và
phù hợp với trực giác hơn mọi lý thuyết có trước. Newton đưa ra cụ thể các
nguyên lý của phương pháp khoa học có thể ứng dụng tổng quát vào mọi lĩnh vực
của khoa học. Đây là điều tương phản lớn so với các phương pháp riêng biệt cho
mỗi lĩnh vực của Aristoteles và Aquinas trước đó.
Tuy các phương pháp
của Newton rất lôgic, ông vẫn tin
vào sự tồn tại của Chúa. Ông tin
là sự đẹp đẽ hoàn hảo theo trật tự của tự nhiên phải là sản phẩm của một Đấng Tạo hoá siêu nhân. Ông cho rằng
Chúa tồn tại mọi nơi và mọi lúc. Theo ông, Chúa sẽ thỉnh thoảng nhúng tay vào
sự vận hồi của thế gian để giữ gìn trật tự.
Cũng có các nhà
triết học trước như Galileo và John
Philoponus sử dụng phương pháp thực
nghiệm, nhưng Newton là người đầu tiên định nghĩa cụ thể và hệ thống cách sử
dụng phương pháp này. Phương pháp của ông cân bằng giữa lý thuyết và thực
nghiệm, giữatoán học và cơ học. Ông toán học hoá mọi khoa học
về tự nhiên, đơn giản hoá chúng thành các bước chặt chẽ, tổng quát và hợp lý,
tạo nên sự bắt đầu của Kỷ nguyên Suy luận. Những nguyên lý mà Newton đưa ra do
đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến thời đại ngày nay. Sau khi ông ra đi, những
phương pháp của ông đã mang lại những thành tựu khoa học lớn gấp bội những gì
mà ông có thể tưởng tượng lúc sinh thời. Các thành quả này là nền tảng cho nền
công nghệ mà chúng ta được hưởng ngày nay.
Không ngoa dụ chút
nào khi nói rằng Newton là danh nhân quan trọng nhất đóng góp cho sự phát triển
của khoa học hiện đại. Như nhà thơ Alexander
Pope đã viết:
Nature and Nature's laws lay hid in night
God said, Let Newton
be!
and all was light
Tự nhiên im lìm trong bóng tối
Chúa bảo rằng Newton
ra đời!
Và ánh sáng bừng lên khắp lối
Tiểu sử
Isaac Newton sinh ra tại một ngôi
nhà ở Woolsthorpe,
gần Grantham ở Lincolnshire,Anh,
vào ngày 25
tháng 12 năm 1642 (4
tháng 1, 1643 theo lịch mới). Ông chưa một lần nhìn thấy mặt cha, do cha ông,
một nông dân cũng tên là Isaac Newton, mất trước khi ông sinh ra không lâu.
Sống không hạnh phúc với bố dượng từ nhỏ, Newton bắt đầu những năm học phổ
thông trầm uất, xa nhà và bị gián đoạn bởi các biến cố gia đình. May mắn là do
không có khả năng điều hành tài chính trong vai anh cả sau khi bố dượng mất,
ông tiếp tục được cho học đại học (trường Trinity College Cambridge) sau phổ
thông vào năm 1661,
sử dụng học bổng của trường với điều kiện phải phục dịch các học sinh đóng học
phí.
Mục tiêu ban đầu của
Newton tại Đại học Cambridge là tấm bằng luật sư với chương trình
nặng về triết học của Aristotle, nhưng ông nhanh chóng bị cuốn hút bởi toán họccủa Descartes, thiên văn học của Galileo và cả quang học của Kepler. Ông đã viết trong thời
gian này: "Plato là bạn của tôi, Aristotle là bạn của tôi, nhưng sự thật
mới là người bạn thân thiết nhất của tôi". Tuy nhiên, đa phần kiến thức
toán học cao cấp nhất thời bấy giờ, Newton tiếp cận được là nhờ đọc thêm sách,
đặc biệt là từ sau năm 1663, gồm các cuốn Elements của Euclid, Clavis Mathematica của William
Oughtred, La Géométrie của Descartes, Geometria a Renato Des Cartes của Frans
van Schooten, Algebra của Wallis và các công trình
củaFrançois Viète.
Ngay sau khi nhận
bằng tốt nghiệp, năm 1630, ông
phải trở về nhà 2 năm vì trường đóng cửa do bệnh dịch hạch lan truyền. Hai năm này chứng kiến một
loạt các phát triển quan trọng của Newton với phương pháp tính vi phân và tích
phân hoàn toàn mới, thống nhất và
đơn giản hoá nhiều phương pháp tính khác nhau thời bấy giờ để giải quyết những
bài toán có vẻ không liên quan trực tiếp đến nhau như tìm diện tích, tìm tiếp
tuyến, độ dài đường cong và cực trị của hàm. Tài năng toán học của ông nhanh
chóng được hiệu trưởng của Cambridge nhận ra khi trường mở cửa trở lại. Ông
được nhận làm giảng viên của trường năm 1670,
sau khi hoàn thành thạc sĩ, và
bắt đầu nghiên cứu và giảng về quang
học. Ông lần đầu chứng minh ánh sáng trắng thực ra được tạo thành bởi nhiều màu
sắc, và đưa ra cải tiến cho kính thiên văn sử dụng gương thay thấu kính để hạn
chế sự nhoè ảnh do tán sắc ánh sáng qua thuỷ tinh.
Newton được bầu vào Hội Khoa học Hoàng gia Anh năm 1672 và bắt đầu vấp phải các phản bác từ
Huygens và Hooke về lý thuyết hạt ánh sáng của ông. Lý thuyết về màu sắc ánh
sáng của ông cũng bị một tác giả phản bác và cuộc tranh cãi đã dẫn đến suy sụp
tinh thần cho Newton vào năm 1678.
Năm 1679 Newton và Hooke tham gia vào một cuộc
tranh luận mới về quỹ đạo của thiên thể trong trọng trường. Năm 1684, Halley thuyết phục được Newton
xuất bản các tính toán sau cuộc tranh luận này trong quyển Philosophiae Naturalis Principia
Mathematica (Các Nguyên lý
của Triết lý về Tự Nhiên). Quyển sách đã mang lại cho Newton tiếng tăm vượt ra
ngoài nước Anh, đến châu Âu.
Năm 1685, chính trị nước Anh thay đổi dưới
sự trị vì của James II, và trường
Cambridge phải tuân thủ những điều luật phi lý như buộc phải cấp bằng cho giáo
chủ không thông qua thi cử. Newton kịch liệt phản đối những can thiệp này và
sau khi James bị William IIIđánh
bại, Newton được bầu vào Nghị
viện Anh nhờ những đấu tranh
chính trị của ông.
Năm 1693,
sau nhiều năm làm thí nghiệm hoá học thất bại và sức khoẻ suy sụp nghiêm trọng,
Newton từ bỏ khoa học, rời Cambridge để về nhận chức trong chính quyền tại Luân
Đôn. Newton tích cực tham gia hoạt động chính trị và trở nên giàu có nhờ bổng
lộc nhà nước. Năm 1703 Newton
được bầu làm chủ tịch Hội
Khoa học Hoàng gia Anh và giữ chức vụ đó trong suốt phần còn lại của cuộc
đời ông. Ông được Nữ hoàng phong bá tước năm 1705.
việc ai phát minh ra vi phân và tích phân, Newton và Lepnic không bao giờ tranh
luận cả, nhưng các người hâm mộ lại tranh cãi quyết liệt khiến hai nhà khoa học
vĩ đại này cảm thấy xấu hổ. Ông mất ngày 31 tháng 3năm 1727 tại
Luân Đôn.
Nghiên cứu khoa học
Quang học
Từ năm 1670 đến 1672, Newton diễn thuyết về quang học. Trong khoảng thời gian này
ông khám phá ra sự tán sắc ánh sáng, giải thích việc ánh sáng trắng qua lăng
kính trở thành nhiều màu, và một thấu kính hay một lăng kính sẽ hội
tụ các dãy màu thành ánh sáng
trắng.
Newton còn cho thấy
rằng ánh sáng màu không thay đổi tính chất, bằng việc phân tích các tia màu và
chiếu vào các vật khác nhau. Newton chú ý rằng dù là gì đi nữa, phản xạ, tán xạ hay truyền
qua, màu sắc vẫn giữ nguyên. Vì thế màu mà ta quan
sát là kết quả vật tương tác với các ánh sáng đã có sẵn màu sắc, không phải là
kết quả của vật tạo ra màu.
Nhờ vào những khám phá trên, Newton
nhận ra nguyên nhân gây ra sự sai lệch màu của
hình ảnh trên kính
viễn vọng khúc xạ thời
đó. Ông đã áp dụng nguyên lý của James Gregory để
tạo ra kính
viễn vọng phản xạ đầu
tiên, khắc phục được nhiều nhược điển về ảnh của kính viễn vọng khúc xạ đồng
thời giảm đi đáng kể chiều dài của kính viễn vọng.
Tác phẩm
·
Method of Fluxions (1671)
·
Of Natures Obvious Laws & Processes in
Vegetation (unpublished,
kh. 1671–75)[4]
·
De Motu Corporum in Gyrum (1684)
·
Philosophiae Naturalis Principia Mathematica (1687)
·
Opticks (1704)
·
Reports as Master of the Mint (1701–25)
·
Arithmetica Universalis (1707)
·
The System of the World, Optical Lectures, The Chronology of Ancient Kingdoms,
(Amended) và De mundi systemate (xuất bản sau khi chết vào năm 1728)
·
Observations on Daniel and The Apocalypse of
St. John (1733)
·
An Historical Account of Two Notable
Corruptions of Scripture (1754)
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHIẾN LƯỢC GIA
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DIỄN VIÊN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- DONALD TRUMP
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KINH TẾ GIA
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI PHÁT MINH
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆ
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ CỐ VẤN
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ GIÁO
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÀNH LỘC
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
BÀI VIẾT
-
▼
2024
(44)
-
▼
tháng 11
(9)
- Võ Văn Kiệt - Chính trị gia người Việt Nam (1922–2...
- Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 20...
- Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng ...
- Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia n...
- Nguyên Hồng - Nhà văn người Việt Nam
- Duy Quang - ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam
- Thành Lộc - Diễn viên Việt Nam
- Fritz Hofmann - Nhà hóa học Người Đức
- Tim Cook - Doanh nhân người Mỹ - Hiện là Tổng Giám...
-
▼
tháng 11
(9)
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia