23 tháng 4 2013
Benedictus de Spinoza hay Baruch de Spinoza (24/2/1633 - 21/2/1677) là một nhà triết học người Hà Lan gốc Do Thái. Tên họ của ông có nhiều dị bản: Despinoza, d'Espinoza, de Spinoza, Spinoza, v.v...
Spinoza được coi là một trong những nhà duy lý vĩ đại nhất của triết học thế kỷ 17và là một trong những nhà luân lý học có quan điểm dứt khoát (do cuốn Luân lý học- tác phẩm lớn được xuất bản sau khi ông qua đời). Các trước tác của ông, cũng như của các nhà duy lý khác, ông đã thể hiện khả năng và trình độ toán học cao. Spinoza sống bằng nghề mài kính, một ngành kỹ thuật đã được coi là rất lý thú vào thời đó - thời kỳ mà người ta đã thu được những phát kiến lớn từ kính viễn vọng. Phải một thời gian sau khi ông qua đời, sau khi cuốn Opera Posthuma của ông được xuất bản, hiệu ứng đầy đủ của các tác phẩm của ông mới được nhận ra. Ngày nay, ông được xem là người đã đặt nền móng cho thời kỳ Khai sáng của thế kỷ 18, và là người sáng lập của chủ nghĩa phê phán Kinh thánh hiện đại. Nhà triết học Gilles Deleuze của thế kỷ 20 gọi Spinoza là "Triết gia tuyệt đối, với cuốn Luân lý học của ông là cuốn sách lỗi lạc nhất về các khái niệm" (Deleuze, 1990).
Cuộc đời
Sau khi bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha vào khoảng năm 1492, nhiều người Do Thái tìm cách tị nạn tại Bồ Đào Nha, nhưng tại đây, họ cũng phải lựa chọn giữa việc chấp nhận theo đạo Ki tô hay bị trục xuất tiếp. Spinoza sinh ra tại Amsterdam, Hà Lan. Cha mẹ ông, Miguel de Espinosa và Ana Débora, là người Do Thái Sephardic, thuộc cộng đồng những người Bồ Đào Nha gốc Do Thái của thành phố. Ana Débora là vợ hai của Miguel, bà qua đời khi Spinoza mới 6 tuổi. Họ là những ngườiMarranos chạy trốn khỏi Bồ Đào Nha để tránh Tòa án Dị giáo Bồ Đào Nha và trở lại với Do Thái giáo. Một số người nói rằng thực ra gia đình Spinoza có tổ tiên ở Tây Ban Nha, những người khác lại cho rằng họ là những người Bồ Đào Nha gốc Do Thái đã chuyển đến Tây Ban Nha rồi quay lại quê cũ Bồ Đào Nha vào năm 1492. Tại Bồ Đào Nha, họ bị buộc phải cải đạo sang Công giáo vào năm 1498. Miguel de Spinoza, cha của Spinoza ra đời sau cuộc cải đạo cưỡng ép này 1 thế kỷ, tại Vidigueira, một thành phố nhỏ của Bồ Đào Nha gần Beja ở Alentejo. Khi cha Spinoza còn nhỏ, ông nội Spinoza là Isaac de Spinoza đã đưa cả gia đình đến Nantes, Pháp. Năm 1615, họ lại bị trục xuất và chuyển đến Roterdam, nơi Isaac qua đời năm 1627. Cha Spinoza cùng gia đình chuyển đến Amsterdam, nơi họ lấy lại tín ngưỡng Do Thái giáo của mình (Manuel thậm chí còn đổi tên thành Abraão de Spinoza, tuy vẫn giữ tên buôn bán như cũ). Cha Spinoza là một thương gia nhập khẩu phát đạt. Baruch được nuôi dạy theo truyền thống Do Thái chính thống; tuy nhiên, bản tính tò mò và tư duy phê phán của ông đã nhanh chóng xung đột với cộng đồng Do Thái. Sau khi các cuộc chiến tranh với Anh và Pháp làm tiêu hao tài sản của gia đình và sau cái chết của cha, cuối cùng ông đã có thể hoàn thành trách nhiệm với công việc kinh doanh và nợ nần với người anh trai Gabriel, và dành toàn tâm toàn ý cho triết học và quang học.
Ban đầu, ông đã bị tẩy chay do các quan điểm thách thức luật lệ Do Thái, các quan điểm này phê phán mạnh mẽ Talmud và các kinh sách khác. Nói chung, Do Thái giáo khá là khoan dung trong việc chấp nhận các hình tượng không điển hình về Chúa trời; tuy nhiên, Spinoza tin rằng Chúa trời là Thiên nhiên/Vũ trụ, một tư tưởng khác xa với bất cứ hình dung truyền thống nào về Chúa trời. Vào mùa hè năm 1656, ông nhận được cherem của cộng đồng Do Thái, (tương tự như sự rút phép thông công), vì sự bội giáo trong cách ông nhận thức về Chúa trời. Các điều khoản của cherem này khá khắc nghiệt (xem [Kasher và Biderman]): nó không bao giờ được thu hồi. Sau khi bị rút phép thông công, ông lấy tên là Benedictus, phiên bản La Tinh của tên Baruch; cả hai đều mang nghĩa "được ban phúc". Ở quê hương Amsterdam, ông còn được biết với tên Bento de Spinoza, tên thân mật của ông.
Sau khi bị rút phép thông công, người ta kể rằng Spinoza đã sống và làm việc tại trường của Franciscus van den Enden, người đã dạy ông tiếng La tinh thời trẻ và có thể đã giới thiệu ông với triết học hiện đại, mặc dù Spinoza không lần nào nhắc đến Van den Enden trong sách và thư từ. Van den Enden là một người theo trường phái Descartes và vô thần, người bị chính quyền thành phố cấm công khai truyền bá các học thuyết của mình. Từ năm 1656, sau khi đã dành toàn tâm ý cho triết học, Spinoza mong muốn mãnh liệt thay đổi thế giới qua việc thiết lập một môn phái triết học bí mật. Do kiểm duyệt, điều này chỉ trở thành hiện thực sau khi ông qua đời, nhờ sự can thiệp của các bạn hữu của ông.
Trong thời kỳ này, Spinoza còn mở các mối quan hệ với một số người Collegiant, thành viên của một giáo phái phi giáo điều và tương giao giáo lý (interdenominational), với những xu hướng của chủ nghĩa duy lý và Arianism (quan điểm thần học của Arius về quan hệ giữa Chúa Cha và Jesus). Spinoza còn liên lạc với Peter Serrarius, một thương gia Kháng cách cấp tiến. Người ta tin rằng Serrarius đã có thời gian là người bảo trợ của Spinoza. Đến đầu thập niên 1660, Spinoza đã trở nên nổi tiếng, Gottfried Leibniz và Henry Oldenburg đã đến thăm ông. Ông còn giữ liên lạc với Oldenburg trong suốt phần đời còn lại. Tác phẩm đầu tiên của Spinoza được xuất bản là Tractatus de intellectus emendatione. Từ tháng 12 năm 1664 đến tháng 6 năm 1665, Spinoza trao đổi thư từ vớiBlyenbergh, một nhà thần học amateur theo chủ nghĩa Calvin, người đã chấn vấn Spinoza về định nghĩa của cái ác. Cuối năm 1665, ông thông báo với Oldenburg rằng ông đã bắt đầu viết một cuốn sách mới, cuốn Theologico-Political Treatise (Luận về thần học chính trị), xuất bản năm 1670. Đáng lưu ý rằng Leibniz đã bất đồng quan điểm sâu sắc với Spinoza trong cuốn Refutation of Spinoza (Phản bác Spinoza) của Leibniz.\
Khi phản ứng của công chúng đối với cuốn Theologico-Political Treatise (được xuất bản giấu tên) trở nên cực kỳ bất lợi cho nhánh của ông về thuyết Descartes, Spinoza buộc phải ngừng xuất bản các tác phẩm của mình. Với một cuộc sống thận trọng và sung túc, ông đeo một chiếc nhẫn ấn khắc chữ viết tắt tên mình, một bông hồng, và từ "caute" (tiếng La Tinh, nghĩa là "thận trọng"). Luân lý học và tất cả các tác phẩm khác, trừ Principles of Cartesian Philosophy (Các nguyên lý của triết học Descartes) và Theologico-Political Treatise, đều được xuất bản sau khi ông qua đời, trong cuốn Opera Postuma, được bạn bè ông bí mật biên tập để tránh bản thảo bị tịch thu và hủy.
Khoảng năm 1661, Spinoza chuyển từ Amsterdam đến Rijnsburg (gần Leiden), sau sống tại Voorburg, rồi The Hague. Ông có cuộc sống đầy đủ từ nghề mài kính. Nhiều người kể rằng ông chế tạo những chiếc kính lúp tuyệt hảo, một số nhà sử học viết ông là một nhà làm kính mắt. Ông còn được giúp đỡ bởi những khoản tiền nhỏ nhưng định kỳ từ những người bạn thân. Ông qua đời năm 1677, trong khi vẫn đang nghiên cứu một luận đề chính trị. Cái chết sớm của ông là do bệnh phổi, có thể là bệnh nhiễm bụi silic, hậu quả của việc thở bụi thủy tinh bay ra từ những chiếc thấu kính mà ông mài. Chỉ một năm trước đó, Spinoza đã gặp Leibniz tại The Hague để bàn luận về tác phẩm triết học quan trọng nhất của ông, Luân lý học, được hoàn thành năm 1676 (Lucas, 1960). Spinoza chưa bao giờ kết hôn và ông không có con.
Tổng quan về triết học Spinoza
Hệ thống triết học của Spinoza đã đưa trật tự và sự thống nhất vào truyền thống tư tưởng cấp tiến, đem lại vũ khí sắc bén cho việc chống lại "quyền lực được công nhận". Khi còn trẻ, đầu tiên ông đã theo học thuyết nhị nguyên của Descartes rằng tâm thức và thể xác là hai chất riêng biệt, nhưng về sau ông đã thay đổi quan điểm và khẳng định rằng chúng không tách biệt mà là một thực thể đơn nhất. Ông khẳng định rằng mọi thứ tồn tại trong Thiên nhiên/Vũ trụ đều là một Thực tại (chất), và chỉ có một tập luật quy định toàn bộ thực tại quanh ta mà ta là một phần của thực tại đó. Spinoza lý luận rằng Chúa trời và Thiên nhiên là hai cái tên của cùng một thực tại, đó là chất duy nhất - cái là cơ sở của vũ trụ, và là cái mà mọi "thực thể" kém hơn thực ra là các dạng thức (mode) và biến thể của nó; rằng việc mọi vật tồn tại và việc cái này là nguyên nhân gây ra cái khác đều là do Thiên nhiên quyết định; và rằng người ta chỉ hiểu được một phần của chuỗi nhân quả phức tạp. Ông còn cho rằng việc con người tự cho là mình có ý chí tự do là kết quả của nhận thức về lòng ham muốn trong khi không có khả năng hiểu được lý do tại sao họ lại muốn những gì mình muốn và hành động như những gì họ làm.
Spinoza khẳng định rằng "Deus sive Natura" ("Chúa trời hay Thiên nhiên") là một thực thể gồm vô hạn các thuộc tính, tư duy và phần mở rộng là hai thuộc tính trong đó. Từ đó, trong quan niệm của ông về bản chất của thực tại, hai thế giới vật chất và tinh thần có vẻ được xem là hai "thế giới con" tồn tại song song, không có phần chung nhau cũng như không giao nhau. Đây là một giải pháp phiếm tâm luận (panpsychist) quan trọng trong lịch sử để giải quyết vấn đề tâm-thân, giải pháp này được biết với tên thuyết nhất nguyên trung hòa (neutral monism). Các kết quả của hệ thống triết học Spinoza còn đem lại hình dung về một vị Chúa trời không cai trị vũ trụ bằng quyền năng, mà chính Chúa trời lại là một phần của hệ thống tất định mà mọi thứ trong thiên nhiên đều là một phần của hệ thống này. Do đó, Chúa trời là thế giới tự nhiên và không có tính cá nhân.
Spinoza đã là một người triệt để theo thuyết quyết định, ông cho rằng toàn bộ những gì xảy ra đều là qua hoạt động của tính cần thiết. Đối với ông, hành vi của con người là hoàn toàn được định trước, trong đó sự tự do là năng lực để biết rằng ta đã được định sẵn và để hiểu tại sao ta hành động như những gì ta làm. Do đó, tự do không phải khả năng từ chối những gì xảy đến với ta, mà là khả năng chấp nhận và hiểu biết đầy đủ về lý do tại sao mọi sự lại cần phải xảy ra như vậy. Bằng cách hình thành "đủ" ý niệm về hành động, cảm xúc hay tình cảm của mình, ta trở nên nguyên nhân "đầy đủ" của các kết quả của mình (nội tại hay ngoại vi), dẫn tới việc tăng tính chủ động (thay vì bị động). Điều đó có nghĩa là ta trở nên vừa tự do hơn vừa giống Chúa trời hơn, như tranh luận của Spinoza trong Scholium to Prop. 49, Phần II. Tuy nhiên, Spinoza còn khẳng định rằng mọi sự nhất thiết phải xảy ra như nó xảy ra. Do đó, không có ý chí tự do.
Triết học của Spinoza có nhiều điểm chung với chủ nghĩa khắc kỷ, ở chỗ cả hai trường phái triết học đều tìm cách thực hiện một vai trò chữa bệnh bằng cách hướng dẫn người ta cách đạt được hạnh phúc. Tuy nhiên, Spinoza có điểm khác biệt lớn đối với các triết gia khắc kỷ ở một khía cạnh quan trọng: ông phủ nhận hoàn toàn quan điểm rằng lý tính có thể chiến thắng cảm xúc. Ngược lại, ông khẳng định rằng một cảm xúc chỉ có thể bị thay thế hoặc làm mờ nhạt bởi một cảm xúc mạnh hơn. Đối với ông, điểm khác biệt cốt yếu là giữa các cảm xúc chủ động và bị động, cảm xúc chủ động là các cảm xúc được hiểu bằng lý tính, còn cảm xúc bị động thì không. Ông còn cho rằng tri thức về các nguyên nhân chân thực của cảm xúc bị động có thể biến nó thành một cảm xúc chủ động. Ở đây, ông đã thấy trước một trong các tư tưởng then chốt của phân tâm học Sigmund Freud.
Một số quan điểm triết học của Spinoza:
· Thế giới tự nhiên là vô hạn.
· Thiện và ác là các định nghĩa của Con người, không phải của thiên nhiên.
· Bất cứ điều gì mà con người và động vật làm đều là tuyệt vời và thần thánh.
· Mọi quyền lợi đều xuất phát từ Nhà nước.
Luân lý học
Phần mở đầu tác phẩm Luận về sự nâng cao hiểu biết (Tractatus de intellectus emendatione) đã gói trọn cốt lõi của luân lý học Spinoza, cái mà ông cho là cái thiện chân thực và cuối cùng. Spinoza có một lập trường của người theo chủ nghĩa tương đối, rằng không có gì mà tự nó là tốt hay xấu, ngoại trừ mức độ tốt xấu chủ quan mà từng cá nhân nhận thức về nó. Sự vật chỉ là thiện hay ác theo cách mà con người muốn áp dụng các khái niệm này cho vật chất. Thay vào đó, Spinoza tin vào vũ trụ tất định của ông mà "mọi vật trong thiên nhiên tiến triển do một sự cần thiết nhất định với một sự hoàn hảo tột bực." Do đó, trong thế giới của Spinoza, không có gì xảy ra một cách tình cờ, và lý tính không có tác dụng cho sự tình cờ. Trong vũ trụ, bất cứ điều gì xảy ra đều xuất phát từ bản chất của các đối tượng, hay bản chất của Chúa trời/Thiên nhiên. Do đó, theo Spinoza, sự hoàn hảo là rất lớn. Nếu hoàn cảnh được xem là bất hạnh thì đó chỉ là do nhận thức không đầy đủ của ta về thực tại. Tuy các phần tử của chuỗi nhân quả không vượt ra ngoài tầm hiểu biết của lý tính con người, nhưng khả năng nắm bắt cái toàn thể vô cùng phức tạp lại có hạn, do các hạn chế của khoa học trong việc xem xét toàn bộ chuỗi nhân quả bằng thực nghiệm. Spinoza còn khẳng định rằng, tuy là cơ sở của mọi ý nhiệm, nhưng nhận thức bằng giác quan chỉ dẫn tới sai lầm, vì chúng ta không biết được những nguyên nhân quyết định ước muốn và hành động của mình. Khái niệm "conatus" của ông - bản năng sinh tồn và phát triển của con người, và khẳng định rằng sức mạnh của đức hạnh/con người được định nghĩa bởi thành công của ta trong việc bảo tồn sự sống theo hướng dẫn của lý tính, đó chính là học thuyết luân lý học trung tâm của ông; đức hạnh cao nhất là tình yêu tri thức hay tri thức về Chúa trời/Thiên nhiên/Vũ trụ. Trong phần cuối của tác phẩm Luân lý học, mối quan tâm của ông đến ý nghĩa của "sự ban phúc chân chính" (true bless), cùng với cách tiếp cận và giải thích độc đáo của ông về việc phải tách các cảm xúc phải khỏi nguyên nhân ngoại vi như thế nào để làm chủ được chúng, là những đoạn rất đặc biệt, với nội dung tiên đoán các kỹ thuật tâm lý của thế kỷ 20. Khái niệm của ông về ba loại tri thức - quan điểm, lý tính, trực giác - và khẳng định rằng tri thức trực giác mang lại sự thỏa mãn cao nhất về tâm thức, dẫn đến đề xuất của ông rằng chúng ta càng ý thức được về bản thân và Thiên nhiên/Vũ trụ thì ta càng hoàn hảo và hạnh phúc sung sướng (trong thực tại), và rằng chỉ có tri thức trực giác là vĩnh cửu. Spinoza đã có đóng góp lớn lao cho hiểu biết về sự hoạt động của tâm thức, ngay cả trong thời kỳ của các phát triển triết học cấp tiến, các quan điểm của ông đã tạo nên một chiếc cầu nối giữa quá khứ thần bí của các tôn giáo và tâm lý học của thời hiện đại.
Tranh cãi về thuyết phiếm thần (Pantheismusstreit)
Năm 1785, Friedrich Heinrich Jacobi công bố một bài chỉ trích thuyết phiếm thần của Spinoza, sau khi Lessing được cho là đã thú nhận trên giường lâm chung rằng mình là người theo chủ nghĩa Spinoza, vào thời đó điều này tương đương với việc được gọi là người vô thần. Jacobi khẳng định rằng học thuyết của Spinoza là thuần túy duy vật chủ nghĩa, vì tất cả Thiên nhiên và Chúa trời đều được coi là chẳng là gì ngoài chất được mở rộng. Đối với Jacobi, điều này là kết quả của chủ nghĩa duy lý Khai sáng và nó sẽ đi đến kết cục là thuyết vô thần tuyệt đối. Moses Mendelssohn không đồng ý với Jacobi, ông cho rằng không có khác biệt thực sự nào giữathuyết hữu thần và thuyết phiếm thần. Thời đó, toàn bộ vấn đề đã trở thành một mối quan tâm chính về tôn giáo và tri thức đối với nền văn minh Châu Âu. Nhưng Immanuel Kant đã phủ nhận, khi ông cho rằng các cố gắng để nhận thức thực tại siêu nghiệm sẽ dẫn đến sự tự mâu thuẫn trong tư duy.
Sự hấp dẫn của triết học Spinoza đối với người châu Âu vào cuối thế kỷ 18 là ở chỗ: nó cung cấp một sự thay thế cho chủ nghĩa duy vật, thuyết vô thần, và thần thánh. Họ đặc biệt bị cuốn hút bởi ba trong số các tư tưởng của Spinoza:
· sự thống nhất của tất cả những gì tồn tại;
· tính quy tắc của tất cả những gì xảy ra; và
· định danh của tinh thần và thiên nhiên.
"Chúa trời hay Thiên nhiên" của Spinoza đã mang lại một vị Chúa trời tự nhiên, sống động, đối lập với Nguyên nhân Đầu tiên mang tính cơ học của Newton (Newtonian mechanical First Cause) hay cơ chế chết của cái "Máy Con người" ("Man Machine") của người Pháp.
Ảnh hưởng hiện đại
Châu Âu cuối thế kỷ 20 đã thể hiện một mối quan tâm lớn hơn về triết học Spinoza, thường từ một góc nhìn cánh tả hay Marxist. Các triết gia nổi bật như Gilles Deleuze, Antonio Negri, Étienne Balibar và triết gia người Brazile Marilena Chauí đã viết sách về Spinoza. Luận án tiến sĩ của Deleuze xuất bản năm 1968 gọi ông là "ông hoàng của các nhà triết học". (Deleuze, 1968). Các triết gia khác chịu ảnh hưởng lớn của Spinoza gồm có Constantin Brunner và John David Garcia. Stuart Hampshire viết một nghiên cứu lớn về Spinoza, tuy tác phẩm của H. H. Joachim cũng có giá trị ngang bằng. Không như các triết gia khác, Spinoza và các tác phẩm của ông đã đượcNietzsche đề cao.
Spinoza còn có ảnh hưởng vượt ra ngoài ranh giới của triết học. George Eliot, tiểu thuyết gia thế kỉ 19, đã dịch Luân lý học, bản dịch đầu tiên sang tiếng Anh được biết đến. W. Somerset Maugham, tiểu thuyết gia thế kỉ 20, đã bóng gió nhắc tới khái niệm trung tâm của Spinoza trong tựa đề tiểu thuyết của ông, Of Human Bondage (Về sự trói buộc con người). Albert Einstein gọi Spinoza là nhà triết học đã có ảnh hưởng lớn nhất đối với thế giới quan của ông. Spinoza đã đặt Chúa trời (chất vô hạn) với Thiên nhiên, thống nhất với niềm tin của Einstein vào một vị thần phi cá thể. Năm 1929, Rabbi Herbert S. Goldstein đánh điện hỏi Eistein về chuyện ông có tin vào Chúa trời hay không. Einstein đã trả lời bằng bức điện có nội dung "Tôi tin vào vị Chúa trời của Spinoza, vị Chúa thể hiện mình trong sự hài hòa trật tự của những gì tồn tại, tôi không tin vào một vị Chúa quan tâm đến số phận và hành động của con người.". Thuyết phiếm thần của Spinoza còn ảnh hưởng lên lý thuyết môi trường. Arne Næss, người khai sinh phong trào sinh thái sâu (deep ecology), đã thừa nhận rằng Spinoza là một nguồn cảm hứng quan trọng. Xa hơn nữa, nhà văn người Argentina Jorge Luis Borges đã chịu ảnh hưởng lớn bởi thế giới quan của Spinoza. Trong nhiều bài thơ và truyện ngắn, ông liên tục nói bóng gió về tác phẩm của nhà triết học, không phải với vai trò một người ủng hộ các học thuyết của Spinoza, mà chỉ nhằm sử dụng các học thuyết này cho các mục đích mỹ học. Ông đã làm điều này nhiều lần với tất cả nhà triết học mà ông ngưỡng mộ.
Spinoza là một nhân vật lịch sử quan trọng tại Hà Lan, nơi chân dung của ông được vẽ trên tờ bạc 1000-guilder được dùng cho đến khi đồng euro được đưa vào sử dụng năm 2002. Giải thưởng khoa học cao quý nhất của Hà Lan có tên Spinozapremie (Giải thưởng Spinoza).
Các tác phẩm và nhân cách của Spinoza được nói đến trong cuốn sách của Matthew Stewart: The Courtier and the Heretic: Leibniz, Spinoza, and the Fate of God in the Modern World (Cận thần và kẻ dị giáo: Leibniz, Spinoza, và số phận của Chúa trời trong thế giới hiện đại) .
NAPOLEON III - vị Vua cuối cùng và Tổng thống đầu tiên của Pháp
Napoléon III, cũng được biết như Louis-Napoléon Bonaparte (tên đầy đủ là Charles Louis-Napoléon Bonaparte) (20 tháng 4 năm 1808 – 9 tháng 1 năm 1873) là tổng thống đầu tiên của nền cộng hòa Pháp và hoàng đế duy nhất của Đế chế Pháp thứ nhì. Napoléon III nắm quyền một cách khác thường, vừa là tổng thống danh nghĩa đầu tiên của Pháp, vừa là vị vua cuối cùng của Pháp.
Napoléon làm tổng thống từ năm 1848, đến 1852 thì xưng đế (Napoléon III). Thời gian cai trị của ông cho thấy những nỗ lực táo bạo của ông về ngoại giao, nhất là trong chiến tranh, phần lớn thất bại, đặc biệt là nỗ lực đưa một hoàng thân Áo lên làm hoàng đế Mexico[1]. Năm 1858, quân đội Pháp xâm lược Việt Nam, bắt đầu thời kì Pháp thuộc ở nước này. Cuối cùng, ông tuyên chiến với Phổ và bị thua tạitrận Sedan năm 1871. Ông đã bị quân Phổ bắt sống, đế chế của ông hoàn toàn sụp đổ. Năm 1873, Napoléon chết tại Anh.
Thân thế và thời niên thiếu
Louis Bonaparte sinh ngày 20/04/1808, là con trai của Louis Bonaparte (em trai của Napoléon I) với Hortense de Beauharnais (con gái riêng của bà Joséphine de Beauharnais – vợ đầu của Napoléon I). Napoléon II là con trai của Napoléon I, trong khi Napoleon III là cháu ruột của Napoleon I. Ông là người con trưởng sinh ra trong gia đình Bonaparte, gọi là Hậu đế của Napoléon I, vì thế lúc rửa tội vợ chồng Hoàng đế đảm nhận là giáo phụ và giáo mẫu của ông.
Năm 1815, Napoléon I lên ngôi vua một lần nữa ở Pháp, mở đầu “vương triều 100 ngày”. Một hôm, Louis Bonaparte theo mẹ đến Cung điện Tuileries (Tuynlơri) để gặp Hoàng đế. Hoàng đế bế lấy ông đến trước cửa sổ để cho ông xem quân đội duyệt binh trên Quảng trường Carôxaiơ. Sau chiến dịch Waterloo năm 1815, gia đình Bonaparte bị đi đày, ông theo mẹ rời Paris ra sống lưu vong ở nước ngoài. Vào tháng 7-1817, mẹ ông mua ruộng và ngôi biệt thự ở Alongnabegơ thuộc bang Thurgovie Thụy Sĩ, ông cũng định cư ở đó học trung học và dự bị đại học ở đây. Đầu năm 1831, ông tham gia cuộc khởi nghĩa của nhân dân ở miền Trung Italia chống lại Giáo hoàng và bọn xâm lược Áo. Sau khi thất bại, ông và mẹ cải trang thành người Anh sang nước Anh. Ngày 5-5, ở Paris đã tổ chức lễ kỷ niệm long trọng 10 năm tạ thế của Hoàng đế, điều này đã khiến ông giữ vững lòng tin sẽ khôi phục đế chế. Tháng 4-1832, ông nhập quốc tịch Thụy Sĩ. Tháng 7 năm đó, con của Napoléon I qua đời. Từ đó, ông tự nhận là người thừa kế đương nhiên nghiệp đế của ông bác, trên cavát có đính con chim ưng được làm bằng đá quý, ông luôn luôn đi lại trước cửa ra vào và muốn người khác gọi mình là “Hoàng thân của tôi”.
Nổi lên giành quyền lực
Sau khi Napoleon Bonaparte và gia đình bị trục xuất khỏi nước Pháp, vua Louis-Philippe I được đưa trở lại ngai vàng. Louis Napoleon luôn mơ trở về Pháp với tư cách là nhà lãnh đạo vĩ đại. Ông lợi dụng nhân lúc tình hình chính trị của vương triều Tháng Bảy đang bị lung lay, để lôi kéo các quân nhân của phái Bonaparte tổ chức đoàn thể bí mật. Ngày 30-10-1836, dưới sự giúp đỡ của Đoàn trưởng pháo binh Strasbourg (Xtơnaxbua), ông diễn thuyết ở binh đoàn này và kêu gọi lật đổ Vương triều Tháng Bảy, ủng hộ ông làm vua. Sau do sự việc thất bại, Louis Bonaparte bị đày sang Mỹ. Tháng 10-1838, ông đến London. Ngày 5-8-1840, ông dẫn 56 người bạn vượt qua eo biển Cale lên Boulogne. Tại đây, họ diễn thuyết với quân đội đóng quân ở địa phương, bằng những lời dụ dỗ cho tiền bạc, tấn phong chức tước và tặng huân chương cho binh lính, phát động họ nổi loạn, lại một lần nữa bị thất bại. Louis Bonaparte bị kết tội tù chung thân và sẽ bị xử tử, tạm giam ở lâu đài Ham. Tháng 5-1846, sau 6 năm bị giam, Louis Bonaparte đầu đội tóc giả, trà trộn vào đám thợ sửa chữa trốn ra khỏi lâu đài Ham, vượt ngục sang London. Năm 1848, sau khi Cách mạng Tháng Hai bùng nổ, ông vội vàng từ London trở về Paris, tỏ ý muốn tham gia Chính phủ lâm thời, nhưng bị Chính phủ lâm thời từ chối. Ông lại quay về London. Tháng 4, ông mạo xưng là công dân nước Anh để được tuyển vào làm cảnh sát đặc biệt ở London và tham gia đàn áp các cuộc biểu tình của phái Hiến chương.
Ngày 10-12-1848, nước Pháp tổ chức bầu Tổng thống, Cavaignac do giết hại những người khởi nghĩa Tháng Sáu một cách điên cuồng làm mọi người khinh bỉ. Cháu Napoléon là Louis Bonaparte nhờ được quảng đại nông dân ủng hộ, nên đã giành được 75% tổng số phiếu bầu, được bầu làm tổng thống. Một thời gian sau khi lên làm Tổng thống, Louis Bonaparte liền muốn lập lại đế chế. Tháng 9-1-1844, ông tổ chức “Hội Tháng Chạp” gồm những tên lưu manh côn đồ, khi ông đi tuần tra, những người này được hóa trang sẵn thành quần chúng hoan nghênh, hô to: “Hoàng đế muôn năm!”, nặn ra cái gọi là ý dân ủng hộ ông xưng đế. Louis Bonaparte đặc biệt chú ý đến việc khống chế quân đội. Ông lợi dụng nhân dịp duyệt binh để khoản đãi các quân nhân, ông đã mua chuộc các sĩ quan, binh lính bằng các loại rượu ngon, xúc xích thuốc lá thơm. Cho tới ngày 2-12-1851, Louis Bonaparte cuối cùng đã điều động được hơn 2 vạn quân, chiếm lấy Paris, giải tán Quốc hội lập hiến; bắt tất cả các Nghị viên chống đối ông ta. Ngày 2-12-1852, Louis Bonaparte khoác áo nhà vua tuyên bố xưng làm Hoàng đế, gọi là Napoléon III. Nền Cộng hòa thứ hai của Pháp được thay thế bằng Đế chế thứ hai.
Cai trị
Sau khi lên ngôi, Napoleon III tập trung các quyền hành chính, lập pháp và tư pháp vào tay mình. Hàng trăm văn võ bá quan đế chế đều là công cụ của ông. Ông thường thường giải quyết những việc lớn quan trọng thông qua các người thân cận theo hầu riêng ông và còn phái các chiến binh theo dõi, giám sát các quan chức để mật báo tình hình. Ông xây dựng bộ máy Nhà nước quan liêu quân sự cồng kềnh, mở rộng quân đội từ 40 vạn lan tới 60 vạn, các quan chức từ 47 vạn tăng lên 62 vạn và còn xây dựng chế độ giám đốc cảnh sát chặt chẽ. Ông nghiêm cấm các hoạt động xuất bản, mít tinh, tự do lập hội, xóa bỏ các câu lạc bộ có tính chất chính trị, cấn mít tinh hội họp công cộng. Một chủ xưởng chỉ vì sơn cửa xưởng màu đỏ mà bị cảnh sát truy cứu hình sự. Giống như Napoleon I, Napoleon III cũng có quan điểm cơ hội về tôn giáo. Ông lợi dụng giáo hội Thiên Chúa làm công cụ tinh thần để cai trị nhân dân, dự toán chi phí về tôn giáo năm 1868 chiếm 20 lần dự toán kinh phí cho giáo dục. Đến những năm cuối của đế chế, trong 730 người dân thì có 1 giáo sĩ; số giáo sĩ lên tới hàng vạn đã khống chế trường học, các cơ quan tố tụng, nơi thành thị và nông thôn, bị mọi người chán ghét gọi họ là “Tên ăn cắp mặc áo đen”. Những hành động ngang ngược của ông đã làm cho phái Cộng hòa của giai ấp tư sản và nhân dân vô cùng bất mãn. Trong năm đầu của Đế chế, nhiêu lần xảy vụ ám sát Hoàng đế. Tháng 1-1858, 4 người yêu nước Italia cầm đầu là Ôxini dùng bom đánh chiếc xe ngựa mà ông ta đang ngồi, suýt nữa thì Hoàng đế mất mạng. Đứng trước sự bất mãn và chống đối, từ năm 1859, ông thay đổi sách lược chính trị, thực hiện một số biện pháp nhượng bộ một số quyềntự do dân chủ, tuyên bố đại xá,... Nhưng “tự do hóa” không phải là ý vốn có của ông. Ông công khai nói: “Trong Chính phủ của ta, bất kể người nào đều không thể vạch kế hoạch cho ta... Một chiếc mũ không thể có hai cái đầu cùng đội”. Có thể thấy nhượng bộ chỉ là một sự lừa gạt.
Các chính sách lớn dưới thời đệ nhị đế chế
Napoléon III coi trong xây dựng kinh tế, đặc biệt chú ý phát triển giao thông vận tải, đường sắt, đường bộ, đường sông và đường biển vào thời kỳ này được phát triển mạnh, tổng số chiều dài đường sắt từ 3.000km năm 1851 thì đến năm 1869 phát triển đến hơn 16.000km, lượng vận tải hàng hóa tăng lên lớp 10 lần, mạng lưới đường sắt toàn quốc bước đầu được hình thành. Paris trở thành một trong những đầu mối giao thông lớn nhất trên thế giới. Ngăn hàng được thành lập nhộn nhịp: Ngân hàng tín dụng ruộng đất, Ngân hàng tín dụng động sản, Ngân hàng quốc gia, Ngân hàng tín dụng Lyon (Lyông), v.v… được thành lập. Ngành kim hoàn và vốn tín dụng lãi suất cao được ưu tiên phát triển, 183 nhà tài phiệt lớn bắt đầu khống chế nước Pháp. Anh em cùng mẹ khác cha của Hoàng đế là Môtni là nhà đầu cơ vàng bạc lớn. Thời gian này chủ nghĩa tư bản Pháp phát triển nhanh chóng, đã hoàn thành được cuộc cách mạng công nghiệp. Sản xuất trong 20 năm tăng khoảng 2 lần, tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu từ 2.600 triệu franc tăng lên 8.000 triệu franc. Các thành quả phát minh kỹ thuật có rất nhiều, chỉ riêng từ năm 1865 đến năm 1869 đã cấp 22.000 giấy chứng nhận phát minh. Ông chủ trương Nhà nước can thiệp vào kinh tế. Năm 1860 ký điều ước thông thương quan thuế với nước Anh, vì vậy phần lớn than, sắt, máy móc và các hàng dệt tràn vào nước Pháp, dẫn tới tình trạng các nhà tư bản ngành dệt và tư bản ngành luyện kim phản đối kịch liệt. Tuy vậy, điều này đã kích thích sự tăng trưởng kinh tế của nước Pháp, tạo điều kiện cho Pháp gia nhập nền kinh tế thị trường, gia tăng sức cạnh tranh. Hoàng đế hết sức coi trọng việc xây dựng các công trình văn hóa và kinh tế Paris. Năm 1853, ông ủy nhiệm cho Auxơman và một viên tỉnh trưởng chủ việc xây dựng lại Paris theo mẫu do đích thân Hoàng đế thiết kế. Công trình này kéo dài suốt 17 năm. Các tầng nhà cao vút, nổi bật cùng với các đại lộ cây xanh, các cửa hàng buôn bán, rạp hát, các đài phun nước, khiến Paris trở thành nổi tiếng là thành Phố cây xanh của thế giới. Những thành tựu kinh tế của Đế chế tuy làm cho mức sống bình quân của nước Pháp trong thời gian đó có được nâng cao đôi chút, nhưng chưa làm cho đời sống của tất cả mọi người được cải thiện. Theo ước tính của Ôxman, năm 1862, Paris có 70% người chết không để lại bất kỳ một di sản nào, thậm chí ngay cả chi phí chôn cất cũng không có. Nhưng giai cấp tư sản đặc biệt là giai cấp tư sản tài chính lớn, lại phát tài to. Hoàng tộc đứng đầu là Hoàng đế và cung đình khôn khéo cướp đoạt, họ sống một cuộc sống cực kỳ xa hoa. Hoàng đế mỗi năm được hưởng tới 2,5 triệu franc, và còn có 7 triệu Franc tiền thu nhập về đất sản xuất của Hoàng gia. Hoàng hậu mỗi năm số tiền tiêu vặt cũng lên tới 120 vạn franc mà lương công nhân năm cao nhất chỉ có xấp xỉ 5.000 franc. Hoàng đế, ngoài thời gian từ tháng 12 hằng năm đến tháng 4 năm sau tại Paris ra, còn lại đều đi du ngoạn giải trí ở các nơi danh lam thắng cảnh: tháng 5 ở Saint Cloud, tháng 6, 7 ở Fontainebleau, tháng 8 đi Plombières hoặc Vans, tháng 9 đến Biarritz bên bờ biển, cuối tháng 10 trở về. Sau khi ở đây thời gian ngắn, ngày 15-11 đi Compiègne để săn bắn, hầu như năm nào cũng như vậy. Hoàng cung nhiều lần tổ chức vũ hội, các khách khứa phải mặc quần sóc, váy đầm và đi bít tất dài quân nhân phải mặc lễ phục quân đội. Còn trên vũ hội hóa trang, trang phục các thời kỳ lịch sử của các nước đều để hở mặt, các quý bà mặc một bộ lễ phục ban đêm, trị giá bằng tiền chi tiêu 2 năm của một gia đình bình dân.
Các cuộc chiến tranh thời Napoleon III
Sau khi Napoléon III xưng đế, chiến tranh bên ngoài luôn luôn xảy ra. Tháng 3-1854, nhân dịp chiến tranh Nga – Thổ, ông ta liên hợp với nước Anh, tuyên chiến với Nga. Ngày 17-8, ông ra lệnh cho Hạm đội lên liên hợp Pháp - Anh tiến vào Sébastơpol, chiến tranh Crưm mở rộng. Trong trận vây hãm thành Sebastopol gần một năm, quân Pháp chết trận, chết bệnh tật lên tới gần 10 vạn người, hao tiền tốn của lên tới hàng trăm vạn franc. Ngày 10-9-1855, liên quân Pháp – Anh tiến đánh Sébastopol. Thắng lợi của chiến tranh lần này đã khôi phục được địa vị bá chủ châu Âu của Pháp. Ngôi Hoàng đế của Napoléon III được Củng cố. Năm 1853, ông ta phái binh đi đánh chiếm đảo Tân Calédonie (Calêđôni), biến đảo này thành thuộc địa của Pháp. Ông còn phái binh đi chinh phục Algérie (Angiêri), làm cho Algérie trở thành "con bò sữa" của nước Pháp. Tháng 7-1858, lấy danh nghĩa giúp Italia thống nhất, Napoléon III đã mời Thủ tướng Vương quốc Sardaigne (Xacđenhơ) mạnh nhất của Italia là Cavour (Cavua) bí mật thăm Pháp để bàn biện pháp đối phó với chiến tranh Áo. Ngày 26-1-1859 Pháp và Sardaigne thành lập Đồng minh chống Áo. Tháng 5-1859, Napoléon III dẫn quân vào Italia đánh Áo. Nhưng nhân lúc liên minh Pháp Sardaigne đánh bại quân Áo, ông lại đột nhiên ngừng chiến. Tháng 7, một mình Pháp hòa ước với Hoàng đế Áo. Sự thống nhất Italia vì thế mà bị chết yểu, còn ông lại từ vụ Italia được trả “thù lao” bằng hai nơi là Nice (Nixơ) và Savoie (Xavoa).
Ở châu Á, Napoleon III xâm lược Việt Nam, Campuchia và còn phái quân đi cùng quân đội nhà Thanh Trung Quốc đàn áp cuộc khởi nghĩa "Hội tiểu đao" ở Thượng Hải. Sau Chiến tranh Thuốc hiện, quân Pháp lại xâm phạm Trung Quốc. Tháng 10-1860, xâm nhập Bắc Kinh, cùng quân Anh cướp bóc đốt cháy vườn Viên Minh. Sự mạo hiểm quân sự lớn nhất của Napoléon III là cuộc viễn chinh ở Mêhicô. Đầu năm 1862, ông ta cử tướng Bazaine (Baden) thống lĩnh mấy vạn quân tiến vào nước này. Tháng 6 năm sau, đánh chiếm Thủ đô của Mêhicô. Cuộc viễn chinh ở Mêhicô thất bại đã làm tăng thêm sự mâu thuẫn sâu sắc trong nước.
Chiến tranh Pháp-Phổ
Để làm dịu nguy cơ trong nước, ông đã tranh chấp quyền bá chủ châu Âu với Phổ. Ngày 19-7-1870, Napoléon III tuyên chiến với Phổ. Hoàng hậu Eugénie (Ơgiêni) chấp chính ở Paris. Napoléon III tự làm thống soái toàn quân, ngày 28-7, ông ta đưa Hoàng thái tử thân chinh ra trận. Napoléon III nói khoác lác là Pháp có thể chuẩn bị chiến tranh tốt, sớm trước 10 ngày so với Phổ, nhưng đến khi kiểm tra quân đội mới thấy quân Pháp bố trí không tốt, phối hợp không linh hoạt, trang bị rất kém. Thượng tuần tháng 8, quân Pháp liên tiếp thất bại. Ông ta định trốn về Paris, sau khi gặp phải sự cự tuyệt của Hoàng hậu Eugénie, ông đành giao cho Mac-Mahon (Mác-Mahông) làm thống soái và ở lại cùng quân đội. Mặt trận không giành được thắng lợi, đã làm cho chính quyền Paris dao động. Ngày 9-8, Eugénie buộc Nội các Ollivier (Oliviê) từ chức, để tổ chức Nội các thời chiến đứng đầu là Bá tước Balisơ. Các quyết sách chiến lược của Bộ Lục quân và ý đồ tác chiến của các tướng lĩnh về mặt trận cách nhau rất xa, điều đó đã dẫn đến hệ thống chỉ huy quân sự hỗn loạn. Quân Phổ thừa cơ từng bước bám sát quân Pháp mà đánh. Ngày 30-10, đại quân của Mac-Mahon bị quân phổ bao vây ở Sédan (Xêđăng). Quân Pháp tự chống trả kịch liệt, nhưng bị động nên thất bại. Chiều ngày mồng 1-9, Napoléon III trong thế tuyệt vọng đã ra lệnh đầu hàng. Ngày hôm sau, Hoàng đế bị bắt làm tù binh. Ngày 4-9, Paris nổ ra Cách mạng lật đổ đế chế thứ II lập nên nền cộng hòa, lịch sử gọi là nền cộng hòa thứ III. Hoàng hậu Eugénie hoảng sợ bỏ trốn sang Anh.
Những năm tháng cuối đời
Từ tháng 9-1870 đến tháng 3-1871, Napoléon III bị giam lỏng trong một tòa biệt thự tại vùng ngoại ô Caxac, Đức. Thời gian này, ông nhiều lần cử người đàm phán ký kết hòa ước với Thủ tướng Đức Bismarck (Bixmac) và khôi phục quan hệ với đế chế. Vì Bismarck đòi giá rất cao, mà tình thế của Pháp lại không chịu sự điều khiển của Napoléon III. Vì thế, ý đồ của Napoleon III cuối cùng bị phá sản. Ngày 19-3-1871, ông được nước Đức phóng thích, ngày hôm sau, ông đến Anh, ông về Chislehurt (Sixlêhơt) gặp mặt Eugénie và các con đã đến đây trước đó. Từ đấy Napoleon III ở ẩn tại đây, ngày 9-1-1873, ông ốm chết.
Thông tin bên lề
Khi còn đương vị, Napoleon III đã nảy ra một ý thích kỳ quái là cần phải có một chiếc vương miện làm bằng kim loại còn quý hơn cả vàng với ngọc. Với sự giúp đỡ của các nhà hóa học Pháp lúc đó, nguyên tố này đã được tìm ra. Đó chính là nhôm. Điều này không có gì là lạ vì nhôm là một trong các nguyên tố kim loại có hàm lượng lớn nhất trên Trái Đất (8.8%). Tuy vậy, con người biết cách luyện nhôm khá muộn. Nếu như sắt được luyện từ rất lâu thì mãi tới năm 1827, nhà vật lý người Đan Mạch J.C.Oersted mới làm được việc là đẩy được nhôm nguyên chất ra khỏi Clorua nhôm nhờ Kali. Trong vòng 60 năm sau đó, nhôm vẫn là kim loại quý vì không có cách gì tăng được sản lượng của nhôm. Sau đó, Napoleon III đã kiêu hãnh đội vương miện bằng nhôm thay cho vàng bạc châu báu.
OLIVER CROMWELL - Nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland. Ông là một trong những chỉ huy của lực lượng quân đội mới đánh bại những người bảo hoàng trong cuộc nội chiến Anh. Sau khi vua Charles I của Anhbị xử tử năm 1649, Cromwell chinh phục Ireland và Scotland rồi cai trị với tư cách huân tước bảo hộ từ năm 1653 cho tới khi ông qua đời năm 1658.
Cromwell sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ và cuộc đời ông hoàn toàn mờ nhạt cho tới đầu những năm 40 tuổi. Có lúc ông sống như một điền chủ nhỏ, rồi sau đó khấm khá hơn nhờ khoản thừa kế từ một người bác. Cũng vào những năm 40 tuổi, Cromwell cải đạo sang Thanh giáo. Ông được bầu vào hội đồng dân biểu ở Cambridge rồi tham gia cuộc nội chiến Anh bên phe những người nghị viên.
Là một chiến binh can đảm (biệt danh “Sắt thép”), ông bắt đầu được biết tới sau khi chỉ huy một đội kỵ binh chống lại toàn bộ quân đội hoàng gia. Cromwell là người thứ ba ký vào lệnh xử tử hình Charles I vào năm 1649 và là thành viên của nghị viện Rump từ 1649 đến 1653. Ông được giao chỉ huy chiến dịch đánh Scotland trong các năm 1650-1651. Ngày 20 tháng 4 năm 1653, Cromwell giải tán nghị viện Rump bằng vũ lực rồi thành lập nghị viện Barebones trước khi trở thành Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland vào ngày 16 tháng 12 năm 1653 cho tới khi ông qua đời. Khi những người bảo hoàng trở lại nắm quyền vào năm 1660, xác ông bị đào lên, bị treo và bị chặt đầu.
Cromwell là một nhân vật gây rất nhiều tranh cãi trong lịch sử nước Anh. Với những sử gia như David Hume hay Christopher Hill, ông là tên độc tài phạm tội giết vua, nhưng với những người khác như Thomas Carlyle hay Samuel Rawson Gardiner, ông là người anh hùng của tự do và dân chủ. Ở Anh, Cromwell được chọn vào danh sách 10 người vĩ đại nhất nước Anh mọi thời đại trong một cuộc bình chọn của BBC năm 2002. Những biện pháp của ông đối phó với người Thiên chúa giáo ở Ireland bị nhiều sử gia coi là rất gần với tội ác diệt chủng, và ở chính Ireland cho tới tận bây giờ, người ta vẫn rất căm thù Cromwell.
Thời trẻ: 1599-1640
Những tư liệu còn sót lại không cung cấp gì nhiều về 40 năm đầu tiên trong cuộc đời Cromwell. Ông sinh ở Huntingdon ngày 25 tháng 4 năm 1599. Mẹ và cha ông là Elizabeth và Robert Cromwell (khoảng 1560-1617). Oliver Cromwell có tổ tiên là Catherine Cromwell (sinh khoảng 1482), chị của nhà chính trị thời kỳ Tudor Thomas Cromwell. Catherine kết hôn với Morgan Morgan ap Williams, con trai của William ap Yevan của Wales và Joan Tudor, tức là Cromwell là một người anh họ xa với những đối thủ dòng vua Stuart của ông. Gia tộc Cromwell tiếp nối với Richard Cromwell (khoảng 1500-1544), Henry Cromwell (khoảng 1524-6 tháng 1 năm 1603), rồi đến cha của Oliver, Robert Cromwell (khoảng 1560-1617). Robert kết hôn với Elizabeth Steward hay Stewart (1564-1654) và Oliver ra đời. Như vậy, Thomas là nội tổ bá của Oliver Cromwell.
Đẳng cấp xã hội của gia đình Cromwell khá thấp, thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ, khi ông ra đời. Cha ông là con trai nhỏ trong gia đình và là một trong 10 người anh em sống sót qua thời thơ ấu. Hệ quả là Robert chỉ được thừa kế một ngôi nhà ở Huntingdon cùng một điền trang nhỏ bé. Điền trang đó mang tới thu nhập khoảng 300 bảng mỗi năm, thuộc vào loại thấp nhất trong số các quý tộc nhỏ thời bấy giờ. Sau này, vào năm 1654, chính Cromwell đã nói: “Tôi sinh ra như một người quý tộc, không nổi tiếng, cũng không vô danh”. Lễ rửa tội của Cromwell diễn ra ngày 29 tháng 4 năm 1599 tại nhà thờ St. John, và thời thơ ấu ông có đi học ở trường Huntingdon Grammar School. Ông tiếp tục theo học đại học tại Đại học Sidney Sussex, Cambridge, thời bấy giờ mới được thành lập và là trường có khuynh hướng theo Thanh giáo mạnh mẽ. Ông rời trường năm 1617 sau cái chết của người cha mà chưa nhận bằng cấp gì. Sau đó, Cromwell trở về nhà ở Huntingdon và trở thành trụ cột của gia đình gồm mẹ và bảy cô chị em gái vẫn chưa lấy chồng.
Ngày 22 tháng 8 năm 1620, tại St.Giles, Cripplegate, London, Cromwell kết hôn với Elizabeth Bourchier (1598–1665). Họ có chín người con:
· Robert (1621-1639), chết khi đi học xa nhà.
· Oliver (1622-1644), chết vì bệnh sốt thương hàn khi đang là một sĩ quan quân đội.
· Bridget (1624-1681), kết hôn với Henry Ireton, rồi Charles Fleetwood.
· Richard (1626-1712), người thừa kế chức Huân tước bảo hộ của Cromwell.
· Henry (1628-1674), sau này trở thành Toàn quyền Ireland.
· Elizabeth (1629-1658), kết hôn với John Claypole.
· James (sinh và mất 1632), chết khi vừa sinh.
· Mary (1637-1713), kết hôn với Thomas Belasyse, Bá tước thứ nhất của Fauconberg.
· Frances (1638-1720), kết hôn với Robert Rich, rồi Sir John Russell.
Cha của Elizabeth, Sir James Bourchier, là một nhà kinh doanh đồ thuộc da ở London sở hữu những mảnh đất lớn tại Essex và có liên hệ chặt chẽ với những gia đình quý tộc nhỏ theo Thanh giáo ở đó. Cuộc hôn nhân giúp Cromwell có những liên hệ đầu tiên vớiOliver St John và với nhiều thành viên chủ chốt của cộng đồng giới buôn bán kinh doanh tại London, những người nhận sự che chở về chính trị từ các bá tước của Warwick và Henry Rich, bá tước thứ nhất của Hà Lan. Việc trở thành một người trong nhóm người sùng đạo này có vai trò cốt tử với sự nghiệp chính trị cũng như binh nghiệp của Cromwell. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, không có nhiều tài liệu cho thấy tôn giáo thực sự của Cromwell là gì. Lá thư đề năm 1626 của ông gửi Henry Donwhall, một bộ trưởng theo đạo Tin lành dòng Arminian cho thấy Cromwell chưa bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Thanh giáo. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy Cromwell đã trải qua những dằn vặt nội tâm liên quan tới tôn giáo của ông từ cuối những năm 1620 đến đầu những năm 1630. Ông phải điều trị về tâm lý với một bác sĩ ở London, Theodore de Mayerne vào năm 1628. Ông cũng tham gia vào một cuộc ẩu đả giữa các quý tộc nhỏ ởHHuntingdon về hương ước mới cho thị trấn và đã bị gọi ra trước hội đồng thị trấn vào năm 1630.
Năm 1631, Cromwell bán hầu hết các bất động sản của ông ở Huntingdon; có thể là hậu quả của cuộc va trạm trên, và chuyển tới một trang trại ở in St Ives, Cambridgeshire. Sự kiện này là một bước thụt lùi về địa vị xã hội của Cromwell và có lẽ đã ảnh hưởng mạnh tới tinh thần, quan điểm về tôn giáo và cảm xúc của ông. Một lá thư Cromwell viết cho vợ của Oliver St John năm 1638 thể hiện điều đó.
Năm 1636, Cromwell được thừa kế nhiều bất động sản ở Ely từ một người chú bên họ mẹ, cũng như công việc của người chú, một nhân viên thu thuế của nhà thờ Ely. Nhờ đó, thu nhập của ông tăng khoảng 300-400 bảng một năm. Khoản thu nhập này giúp ông trở lại với tầng lớp địa chủ nhỏ vào cuối những năm 1630. Ông cũng trở thành một người theo Thanh giáo thành tâm và thiết lập những mối quan hệ gia đình với các gia đình lớn ở London và Essex.
Thành viên nghị viện: 1628-1629 và 1640-1642
Cromwell trở thành thành viên của Nghị viện Huntingdon trong nhiệm kỳ 1628-1629. Ông không tạo được nhiều ảnh hưởng ở đó. Những tài liệu lưu trữ của nghị viện chỉ cho thấy một bài phát biểu không được đón nhận lắm của ông. Sau khi giải tán nghị viện này, vua Charles I cai trị mà không có nghị viện trong 11 năm tiếp theo. Khi Charles phải đối mặt với cuộc nổi dậy của những ngườiScotland, do không có đủ tiền, ông buộc phải thành lập nghị viện trở lại vào năm 1640. Cromwell trở lại là một thành viên của nghị viện Cambridge, nhưng nghị viện này chỉ tồn tại được ba tuần.
Một nghị viện thứ hai được thành lập cũng trong năm đó. Cromwell lại là nghị viên đại diện cho Cambridge. Cũng giống như giai đoạn 1628-1629, có vẻ như Cromwell có được vị trí này là nhờ sự bảo trợ của những người khác. Trong tuần đầu tiên nghị viện họp, ông được đề cử đọc kiến nghị về việc thả John Lilburne, bị bắt vì mang bất hợp pháp những văn bản về tôn giáo vào Anh từ Hà Lan, một nhiệm vụ lẽ ra không được giao cho một người còn khá là vô danh và ít ảnh hưởng như Cromwell. Trong hai năm đầu ở nghị viện, Cromwell liên hệ về mặt chính trị với một nhóm các quý tộc sùng đạo ở Thượng viện và các thành viên ở Hạ viện mà ông đã có mối liên hệ với tư cách cá nhân, tôn giáo và gia đình từ những năm 1630, như các bá tước Robert Devereux của Essex, Robert Rich củaWarwick và Francis Russell của Bedford, Oliver St John, và tử tước William Fiennes của Saye và Sele. Trong giai đoạn này, nhóm quý tộc nói trên đang có dự định về một cuộc cải cách: quyền hành pháp do những nghị viện thông thường kiểm tra và mở rộng một cách vừa phải quyền tự do tín ngưỡng. Cromwell có lẽ cũng có một vai trò nào đó trong những mưu toan chính trị của nhóm này. Tháng 5 năm 1641, Cromwell đã thúc đẩy lần đọc thứ hai của Bộ luật nghị viện thường niên và sau đó đóng vai trò trong việc soạn thảo đạo luật về việc loại bỏ quy chế giám mục quản lý nhà thờ.
Chỉ huy quân đội: 1642-1646
Do không thể thống nhất trong việc giải quyết vấn đề Scotland, xung đột vũ trang giữa nghị viện và vua Charles I bùng nổ vào mùa thu năm 1642. Trước khi gia nhập lực lượng của nghị viện, kinh nghiệm quân sự duy nhất của Cromwell là những đợt huấn luyện với lực lượng dân quân địa phương. Vào lúc đó, ở tuổi 43, ông chiêu mộ được một đơn vị kỵ binh ởCambridgeshire sau khi ngăn một đoàn vận chuyển bạc từ các đoàn thể ở Cambridge cho nhà vua. Cromwell cùng đội quân của mình sau đó tham gia trận đánh quyết định vào tháng 10 năm 1642, trận Edgehill. Đơn vị của ông được tăng lên thành một trung đoàn đầy đủ vào mùa đông năm 1642 và là một phần của liên quân phía đông do Edward Montagu, tử tước Manchester, chỉ huy. Cromwell có thêm kinh nghiệm và giành được chiến thắng trong nhiều trận đánh ở phía đông đảo Anh trong năm 1643, đáng kể nhất là trận Gainsborough ngày 28 tháng 7. Sau trận đánh này, Cromwell được cử làm thống đốc Ely và được thăng hàm đại tá trong liên quân phía đông.
Vào thời gian diễn ra trận Marston Moor tháng 7 năm 1644, Cromwell được thăng hàm thiếu tướng kỵ binh trong quân đoàn Manchester. Thành công của đội kỵ binh do ông chỉ huy trong việc chọc thủng hàng rào kỵ binh của quân hoàng gia rồi tấn công bộ binh từ phía sau tại Marston Moor là một yếu tố quan trọng đóng góp vào thắng lợi của phe nghị viện trong trận đánh đó. Cromwell luôn dẫn đầu đội quân của mình và đã bị một vết thương ở đầu. Cháu trai của ông, Valentine Walton, tử trận ở Marston Moor, và Cromwell viết một bức thư rất nổi tiếng cho cha của anh, anh rể của ông, kể lại cái chết can đảm của người lính. Trận Marston Moor giúp phe nghị viện kiểm soát miền bắc nước Anh, nhưng phe hoàng gia vẫn còn kháng cự.
Trận Newbury lần thứ hai bất phân thắng bại diễn ra vào tháng 10 năm 1644 đồng nghĩa với việc cho tới cuối năm 1644, cuộc chiến vẫn chưa có dấu hiệu gì sẽ kết thúc. Trong trận Newbury, quân đoàn của tử tước Manchester đã để quân của nhà vua phá vây, dẫn đến bất đồng trong quan điểm của Cromwell với Manchester. Cromwell cho rằng ông này không có đủ nhiệt tình để chỉ huy cuộc chiến. Manchester thì kết tội Cromwell chiêu mộ những người “thuộc dòng dõi thấp hèn” làm sĩ quan quân đội. Cromwell đáp trả rằng: “Nếu chọn những người trung thực làm đội trưởng kỵ binh, những người trung thực khác sẽ theo họ… Tôi thà có một đội trưởng khoác áo vải thô biết rõ anh ta chiến đấu cho cái gì và yêu cái mà mình chiến đấu cho còn hơn là một người mà ông gọi là quý tộc, nhưng chỉ có mỗi thế thôi”. Lúc đó, Cromwell cũng bất đồng quan điểm với thiếu tướng Lawrence Crawford, một nhân vật của giáo hội Scotland liên minh với quân nghị viện của Manchester, người phản đối việc Cromwell khuyến khích sự tham gia của những người độc lập không theo chính thống giáo vào quân đội. Những khác biệt của Cromwell với các đồng minh người Scotland biến thành tình trạng thù địch công khai vào năm 1648 và giai đoạn 1650-1651.
Đầu năm 1645, nghị viện Anh thông qua một sắc lệnh buộc các thành viên của cả Hạ viện và Thượng viện, bao gồm cả tử tước Manchester, phải lựa chọn giữa một vị trí quản lý nhà nước hoặc chỉ huy quân đội. Tất cả các nghị viên, trừ Cromwell, đang làm nhiệm vụ trên chiến trường, quyết định từ bỏ các vị trí của mình trong quân đội. Sắc lệnh nói trên còn quy định việc tổ chức lại quân đội trên cơ sở quốc gia, thay thế cho những liên quân mang tính địa phương. Tháng 4 năm 1645, quân đội mới được thành lập với tổng tư lệnh là Sir Thomas Fairfax và Cromwell là phó tổng tư lệnh, hàm trung tướng kỵ binh. Lúc đó, quân số chiến trường của phe nghị viên gần gấp đôi của nhà vua. Trong trận Naseby tháng 6 năm 1645, quân nghị viên giành một chiến thắng hủy diệt trước quân nhà vua. Cromwell đã chỉ huy cánh quân của ông một cách xuất sắc tại Naseby và lại một lần nữa hạ gục đội kỵ binh hoàng gia. Trong trận Langport ngày 10 tháng 7 năm 1645, Cromwell tham gia trong thất bại của đội quân đáng kể cuối cùng của lực lượng hoàng gia. Hai trận đánh đó đã kết thúc hy vọng chiến thắng của nhà vua và các chiến dịch của phe nghị viện sau đó chỉ còn là tấn công, bao vây và đánh chiếm các vị trí phòng thủ của quân hoàng gia ở phía tây nước Anh. Tháng 10 năm 1645, Cromwell bao vây và chiếm đượcBasing House, nơi ông đã giết hàng trăm quân đóng giữ của phe hoàng gia sau khi họ đã đầu hàng. Cromwell cũng tham gia các trận vây hãm ở Bridgwater, Sherborne, Bristol, Devizes, và Winchester, rồi sau đó trải qua nửa đầu năm 1646 trong việc dập tắt các kháng cự cuối cùng của quân đội hoàng gia ở Devon và Cornwall. Charles I đầu hàng những người Scotland ngày 5 tháng 5 năm 1646, cuộc nội chiến kết thúc. Cromwell và Fairfax chính thức chấp nhận sự đầu hàng của phe hoàng gia ở Oxford vào tháng 6 năm đó.
Cromwell không hề được huấn luyện bài bản về chiến lược quân sự và ông cũng chỉ sử dụng đội hình kỵ binh ba hàng rất phổ biến thời bấy giờ. Những điểm mạnh của ông nằm ở khả năng lãnh đạo, huấn luyện, kỷ luật và đạo đức của một người cầm quân với binh sĩ dưới quyền. Trong một trận đánh mà cả hai bên đều sử dụng chủ yếu là quân không chính quy, những phẩm chất này trở nên đặc biệt quan trọng và có lẽ đã đóng góp vào chiến thắng quyết định của Cromwell.
Tham gia chính trường: 1647–1649
Tháng 2 năm 1647, Cromwell bị ốm và ông phải xa đời sống chính trị hơn một tháng. Vào lúc ông hồi phục, những thành viên nghị viện đang bị chia rẽ vì vấn đề liên quan đến nhà vua. Phần lớn các thành viên ở cả hai viện hướng tới một giải pháp làm hài lòng quân đội liên minh Scotland, giải tán quân đội mới và khôi phục ngai vàng cho Charles I đổi lấy việc giành một vùng đất riêng cho giáo hội Scotland. Cromwell phản đối hệ thống giáo hội của những người Scotland mà ông cho rằng sẽ thay thế chế độ quân chủ bằng một hình thức chuyên chế khác. Quân đội mới, bị chọc giận vì không được nghị viện trả khoản tiền lương mà họ còn nợ, kiến nghị chống lại những thay đổi này, nhưng Hạ viện đã bác bỏ kiến nghị đó. Tháng 5 năm 1647, Cromwell được cử tới tổng hành dinh quân đội ởSaffron Walden để thương lượng, nhưng hai bên không đạt được thỏa thuận. Tháng 6 năm 1647, một toán kỵ binh do Cornet George Joyce chỉ huy cướp lấy nhà vua khỏi sự giam giữ của nghị viện. Dù Cromwell có gặp Joyce vào ngày 31 tháng 5, nhưng cứ liệu lịch sử chưa đủ để khẳng định ông có vai trò như thế nào trong sự kiện đó.
Cromwell và Henry Ireton sau đó soạn thảo một bản tuyên ngôn Heads of Proposals đề xuất kiểm tra quyền lực của nhánh hành pháp, thiết lập nên những định chế dân cử mới và phục hồi thể chế quản lý không bắt buộc với nhà thờ. Rất nhiều tướng lĩnh quân đội, như những người theo phong trào Levellers do John Lilburne đứng đầu, cho rằng như thế là chưa đủ để mang tới sự bình đẳng về chính trị cho tất cả mọi người, dẫn đến mâu thuẫn gay gắt ở Putney trong mùa thu năm 1647 giữa một bên là Cromwell, Ireton và bên kia là quân đội. Vụ mâu thuẫn Putney đã không đi tới giải pháp nào. Cuộc tranh luận đó, cùng với việc Charles I trốn thoát khỏi Hampton Court ngày 12 tháng 11, đã khiến Cromwell có thái độ cứng rắn hơn đối với nhà vua.
Thất bại trong việc đạt được một thỏa thuận chính trị với nhà vua đã dẫn đến cuộc nội chiến Anh lần thứ hai vào năm 1648 khi nhà vua tìm cách trở lại ngai vàng bằng vũ lực. Cromwell đánh bại một cuộc nổi dậy của quân bảo hoàng ở miền nam xứ Wales rồi sau đó hành quân lên miền bắc đối phó với lực lượng Scotland có khuynh hướng bảo hoàng. Trong trận Preston, Cromwell, lần đầu tiên nắm toàn quyền chỉ huy tối cao quân đội, đã dẫn đầu một đội quân 9.000 người giành một chiến thắng vẻ vang trước quân địch có quân số đông gấp đôi.
Tháng 12 năm 1648, nhóm các nghị viên muốn tiếp tục thương lượng với nhà vua bị khai trừ khỏi nghị viện do sức ép từ nhóm lính vũ trang dưới sự chỉ huy của đại tá Thomas Pride, tức sự kiện Pride’s Purge. Những nghị viên còn lại, được biết tới với tên gọi Nghị viện Rump, nhất trí rằng Charles I sẽ bị xét xử dựa trên cáo buộc tội phản quốc. Cromwell lúc bấy giờ vẫn còn ở miền bắc nước Anh để đối phó với sự chống cự của quân đội bảo hoàng. Tuy nhiên, sau khi ông trở lại London, vào ngày diễn ra sự kiện Pride’s Purge, Cromwell nhanh chóng trở thành một người ủng hộ cương quyết những ai muốn đem nhà vua ra xét xử và tuyên án tử hình. Cromwell tin rằng giết Charles I sẽ là cách duy nhất chấm dứt cuộc nội chiến. Lệnh tử hình nhà vua được ký bởi 59 thành viên chủ tọa phiên tòa xét xử, bao gồm Cromwell (là người thứ ba ký vào bản án). Charles I bị tử hình ngày 30 tháng 1 năm 1649.
PAUL GARDNER ALLEN - Nhà đầu tư người Mỹ, đồng sáng lập Microsoft
Paul Gardner Allen (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1953 ở Seattle, Washington) là một nhà đầu tư người Mỹ, đồng sáng lập Microsoft với Bill Gates. Ông thường xuyên xuất hiện trong danh sách những người giàu nhất thế giới; vào năm 2007, Forbes xếp ông là người Mỹ giàu thứ năm, trị giá tài sản ước tính 18 tỷ Đô la Mỹ. Ông là Chủ tịch củaCharter Communications, nhưng không còn là cổ đông của DreamWorks Animation nữa. Vừa rồi ông được mời tham dự Học viện Khoa học và Nghệ thuật Hoạt hình (AMPAS).
Allen cũng sở hữu hai câu lạc bộ thể thao: Seattle Seahawks trong Giải Bóng đá Mỹ Quốc gia và Portland Trail Blazers trong Liên hiệp Bóng rổ Quốc gia.
Năm 2007, Allen nằm trong danh sách 100 người Ảnh hưởng nhất Thế giới của tạp chí Time.
Hiện ông đang định cư tại Mercer Island, Washington.
Những năm đầu tiên
Paul Gardner Allen sinh tại Seattle, Washington trong gia đình Kenneth S. Allen, phó giám đốc của thư viện trường Đại học Washington, và Faye G. Allen, vào năm 1953. Allen học tại Lakeside School, một ngôi trường tư thục uy tín ở Seattle, và kết bạn với Gates, người học dưới ông hai lớp nhưng chia sẻ lòng đam mê máy tính với nhau. Allen là một học sinh gương mẫu ở Lakeside School. Họ đã sử dụng máy điện báo của trường để phát triển kỹ năng lập trình trên vài hệ thống máy chia sẻ thời gian. Sau khi tốt nghiệp, Allen nhập học tại trường Đại học Tiểu bang Washington, và là một thành viên tích cực của Phi Kappa Theta Fraternity, mặc dù ông bỏ học sau đó hai năm để làm lập trình viên cho Honeywell ở Boston, ở đó ông gặp lại người bạn cũ. Sau đó ông đã thuyết phục Gates bỏ học ở trường Đại học Harvard để thành lập Microsoft.
Microsoft
Cùng với Bill Gates, ông đã thành lập Microsoft (ban đầu là "Micro-Soft") tại Albuquerque, New Mexico, năm 1975, và bắt đầu bán ngôn ngữ lập trình thông dịch BASIC. Năm 1980, Allen là người đầu tiên mở đầu cho sự đi lên của khi mua lại hệ điều hành có tên là QDOSvới giá 50.000 đô la Mỹ. Theo hạn chót của IBM, Gates và Allen cảm thấy họ không có đủ thời gian để phát triển một hệ điều hành mới; do đó họ đã mua lại QDOS với chức năng hoàn chỉnh và sửa lại mã nguồn để phù hợp với yêu cầu của IBM. Microsoft đã thắng được hợp đồng cung cấp chương trình hoàn thiện để sử dụng làm hệ điều hành trong loạt máy để bàn mới của IBM. Nó đã trở thành nền tảng cho sự phát triển của Microsoft.
Allen từ chức khỏi Microsoft vào năm 1983 sau khi bị chẩn đoán mắc bệnh Hodgkin, sau đó đã được chữa trị thành công sau vài tháng chữa trị bằng phóng xạ và ghép thần kinh xương.
Vào tháng 11 năm 2000, Allen rút khỏi ban quản trị của Microsoft nhưng được nhờ tư vấn với vị trí cố vấn chiến lược cấp cao của ban điều hành công ty. Ông đã thậm chí nới rộng hơn khoảng cách giữa mình với Microsoft với việc bán 68 triệu cổ phiếu của Microsoft. Có người nói ông hiện vẫn còn sở hữu khoảng 138 triệu cổ phiếu.
Lòng từ thiện
Phần lớn thành công của Paul Allen đã được hiến cho các dịch vụ sức khỏe và dân sinh và cho sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Quỹ gia đình Paul G. Allen được thành lập vào năm 1986 để quản lý những khoản đóng góp. Thông qua quỹ, Allen đã tặng gần 30 triệu Đô la Mỹ hàng năm. Khoảng 75 phần trăm số tiền của Quỹ được tặng cho những tổ chức phi lợi nhuận ở Seattle và tiểu bang Washington. 25 phần trăm còn lại được phân phối cho Portland, Oregon và những thành phố khác ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Allen cũng đóng góp thông qua những dự án từ thiện khác như "lòng từ thiện mạo hiểm". Dự án nổi tiếng nhất trong số đó là Dự án Âm nhạc Kinh nghiệm, Học viện Allen về Não học, và Tìm kiếm Trí thông minh ngoài Trái đất thông qua Ma trận Kính viễn vọng Allen. Tổng số tiền từ thiện của Paul Allen vào năm 2005 ươc tính trên 43 triệu Đô la Mỹ.
Trường Đại học Washington là nơi nhận được phần lớn tiền đóng góp của Paul Allen. Vào cuối thập niên 1980, Allen đã đóng góp 18 triệu đô la Mỹ để xây thư viện mới đặt tên cha của ông, Kenneth S. Allen. Năm 2003 5 triệu đô la Mỹ đã được tặng để thành lập Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Faye G. Allen, đặt theo tên của mẹ ông. Allen cũng là người đóng góp tư nhân lớn nhất (14 triệu đô la Mỹ) và được đặt theo tên ông Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Máy tính Paul G. Allen (hoàn thành năm 2004). Trong suốt những năm qua, Allen đã đóng góp hàng triệu đô la Mỹ cho Khoa Y trường Đại học Washington, gần đây nhất là 3,2 triệu đô la dành cho nghiên cứu viêm tuyến tiền liệt.
Tên ông đã được đặt cho một giống ruồi hoa vì sự đóng góp của ông cho ngành Dipterology.
Năm 1993, Paul Allen đã tài trợ tiền cho một vụ kiện hai năm trong đó gia đình của nghệ sĩ ghi-ta rock Jimi Hendrix đòi lại bản quyền cho nhạc của ông ta sau khi nhà quản lý di sản được cho là đã bán khi chưa được phép. Allen cũng tài trợ cho việc mua những di sản của Hendrix (bao gồm cây guitar Hendrix đã chơi ở Woodstock và cho trưng bày nó ở triển lãm Dự án Kinh nghiệm Âm nhạc.
Nỗ lực đầu tư và phát triển bất động sản ở Seattle
Allen là nhà phát triển và đầu tư chính trong sự phát triển gây tranh cãi của cộng đồng South Lake Union ở Seattle thành trung tâm công nghệ sinh học. Sự phát triển này đã bị phê phán là sự đầu tư cho bất động sản cho Vulcan Inc. được địa phương hỗ trợ. Những lo lắng về sự thiếu hụt nhà cho người thu nhập thấp rất đáng chú ý. Allen đã đầu tư khoảng 200 triệu đô la Mỹ vào năm 2005, và đã đóng góp vào quỹ "South Lake Union Trolley" của thành phố từ Trung tâm WestLake đến phía nam của Lake Union bang Seattle.
Allen là người tài trợ và là chủ của Dự án Trải nghiệm Âm nhạc.
Những đầu tư khác
Forbes báo cáo rằng Allen sẽ đầu tư 1,6 tỷ đô la vào Bangladesh. Phần lớn số tiền nói trên sẽ được dùng để xây nhà máy điện và phần còn lại để xây nhà máy phân bón.
Cùng một lúc, Quỹ đầu tư mạo hiểm Vulcan của Allen sở hữu TechTV, một kênh truyền hình cáp và vệ tinh 24-giờ ở San Francisco, chiếu thời sự và giới thiệu máy tính, công nghệ và Internet.
Liên quan đến thể thao
Năm 1988, Allen mua lại Portland Trail Blazers đội bóng ở giải NBA từ Harry Glickman với giá 70 triệu đô la, từ đó phát triển và quyên góp cho Sân vận động Rose Garden vào năm 1993. Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất của Allen với tư cách là chủ của Trail Blazers là sự tham gia của ông vào cuộc thi ăn hot dog vào giờ nghỉ của trận đấu với Denver Nuggets vào năm 2002. Allen đã ăn 10 cái hot dog trong 12 phút, nhưng thua nhà vô địch thế giới Takeru Kobayashi.
Năm 1997, Allen mua lại đội Seattle Seahawks NFL khi người chủ cũ Ken Behring đe dọa chuyển Seahawks xuống phía nam California. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của sân vận động mới của Seahawks, Qwest Field, mặc dù nó được góp tiền chủ yếu bằng lợi nhuận từ thuế.
Từ năm 2006, Allen đã hỏi những quan chức của Portland và Oregon để hỗ trợ về tài chính cho Blazers, mà ông dự tính sẽ mất khoảng 100 triệu đô la trong ba năm tới. Thị trưởng Portland Tom Potter đang khước từ đề nghị này.
Theo bản bài báo phát hành năm 2006 của Forbes, Blazers được định giá xấp xỉ 300 triệu đô la.
Ngày 27 tháng 4 năm 2007, có tin đồn rằng Allen sẽ đạt được thương vụ mua lại câu lạc bộ bóng đá Anh Southampton. Một nguồn tin gần gũi đã nói "ông tin rằng có một nguồn lợi cho sự đầu tư dài hạn vào Bóng đá Anh. Southampton là một người khổng lồ ngủ quên, một câu lạc bộ gia đình với những giá trị truyền thống, và chúng tôi nhìn thấy giá trị của nó trong thương hiệu toàn cầu”
SpaceShipOne
Năm 2004, Allen đã xác nhận rằng ông nhà đầu tư duy nhất đằng sau phi thuyền thương mại ngoài tầm mắt SpaceShipOne của Scaled Composites của Burt Rutan. SpaceShipOne là nỗ lực tài chính cá nhận đầu tiên đưa thành công con người trong không gian nhìn thấy được và đã chiến thắng trong cuộc thi Ansari X PRIZE.
Ung thư
Ngày 15 tháng 11, 2009, Jody Allen, em gái của Paul Allen và CEO của Vulcan thông báo ra đại chúng là Paul được chuẩn đoán bị Non-Hodgkin lymphoma, một triệu chứng của ung thư.
Octopus
Năm 2003, sự hạ thủy của con tàu Octopus dài 127m của Paul Allen đã đảm bảo vị trí của nó là một trong những du thuyền lớn nhất thế giới. Nó hiện xếp thứ năm trong Danh sách những du thuyền dài nhất. Allen còn có hai chiếc du thuyền khác.
Đời sống riêng tư
Paul Allen sống độc thân. Năm 2005 New York Daily News nói rằng ông đang hẹn hò với nữ diễn viên và là cựu nữ hoàng sắc đẹp Laura Harring, cùng đóng vai chính trong Mulholland Drive, trong khoảng sáu tháng.
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2007, Allen nhận được bằng Tiến sỹ Danh dự của Học viện Công nghệ Liên bang (Thụy Sĩ).
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHIẾN LƯỢC GIA
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DIỄN VIÊN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- DONALD TRUMP
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KINH TẾ GIA
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI PHÁT MINH
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆ
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ CỐ VẤN
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ GIÁO
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÀNH LỘC
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
BÀI VIẾT
-
▼
2024
(43)
-
▼
tháng 11
(8)
- Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 20...
- Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng ...
- Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia n...
- Nguyên Hồng - Nhà văn người Việt Nam
- Duy Quang - ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam
- Thành Lộc - Diễn viên Việt Nam
- Fritz Hofmann - Nhà hóa học Người Đức
- Tim Cook - Doanh nhân người Mỹ - Hiện là Tổng Giám...
-
▼
tháng 11
(8)
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia