23 tháng 4 2013
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa ở Anh và sau đó là Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland. Ông là một trong những chỉ huy của lực lượng quân đội mới đánh bại những người bảo hoàng trong cuộc nội chiến Anh. Sau khi vua Charles I của Anhbị xử tử năm 1649, Cromwell chinh phục Ireland và Scotland rồi cai trị với tư cách huân tước bảo hộ từ năm 1653 cho tới khi ông qua đời năm 1658.
Cromwell sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ và cuộc đời ông hoàn toàn mờ nhạt cho tới đầu những năm 40 tuổi. Có lúc ông sống như một điền chủ nhỏ, rồi sau đó khấm khá hơn nhờ khoản thừa kế từ một người bác. Cũng vào những năm 40 tuổi, Cromwell cải đạo sang Thanh giáo. Ông được bầu vào hội đồng dân biểu ở Cambridge rồi tham gia cuộc nội chiến Anh bên phe những người nghị viên.
Là một chiến binh can đảm (biệt danh “Sắt thép”), ông bắt đầu được biết tới sau khi chỉ huy một đội kỵ binh chống lại toàn bộ quân đội hoàng gia. Cromwell là người thứ ba ký vào lệnh xử tử hình Charles I vào năm 1649 và là thành viên của nghị viện Rump từ 1649 đến 1653. Ông được giao chỉ huy chiến dịch đánh Scotland trong các năm 1650-1651. Ngày 20 tháng 4 năm 1653, Cromwell giải tán nghị viện Rump bằng vũ lực rồi thành lập nghị viện Barebones trước khi trở thành Huân tước bảo hộ của Anh, Scotland và Ireland vào ngày 16 tháng 12 năm 1653 cho tới khi ông qua đời. Khi những người bảo hoàng trở lại nắm quyền vào năm 1660, xác ông bị đào lên, bị treo và bị chặt đầu.
Cromwell là một nhân vật gây rất nhiều tranh cãi trong lịch sử nước Anh. Với những sử gia như David Hume hay Christopher Hill, ông là tên độc tài phạm tội giết vua, nhưng với những người khác như Thomas Carlyle hay Samuel Rawson Gardiner, ông là người anh hùng của tự do và dân chủ. Ở Anh, Cromwell được chọn vào danh sách 10 người vĩ đại nhất nước Anh mọi thời đại trong một cuộc bình chọn của BBC năm 2002. Những biện pháp của ông đối phó với người Thiên chúa giáo ở Ireland bị nhiều sử gia coi là rất gần với tội ác diệt chủng, và ở chính Ireland cho tới tận bây giờ, người ta vẫn rất căm thù Cromwell.
Thời trẻ: 1599-1640
Những tư liệu còn sót lại không cung cấp gì nhiều về 40 năm đầu tiên trong cuộc đời Cromwell. Ông sinh ở Huntingdon ngày 25 tháng 4 năm 1599. Mẹ và cha ông là Elizabeth và Robert Cromwell (khoảng 1560-1617). Oliver Cromwell có tổ tiên là Catherine Cromwell (sinh khoảng 1482), chị của nhà chính trị thời kỳ Tudor Thomas Cromwell. Catherine kết hôn với Morgan Morgan ap Williams, con trai của William ap Yevan của Wales và Joan Tudor, tức là Cromwell là một người anh họ xa với những đối thủ dòng vua Stuart của ông. Gia tộc Cromwell tiếp nối với Richard Cromwell (khoảng 1500-1544), Henry Cromwell (khoảng 1524-6 tháng 1 năm 1603), rồi đến cha của Oliver, Robert Cromwell (khoảng 1560-1617). Robert kết hôn với Elizabeth Steward hay Stewart (1564-1654) và Oliver ra đời. Như vậy, Thomas là nội tổ bá của Oliver Cromwell.
Đẳng cấp xã hội của gia đình Cromwell khá thấp, thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ, khi ông ra đời. Cha ông là con trai nhỏ trong gia đình và là một trong 10 người anh em sống sót qua thời thơ ấu. Hệ quả là Robert chỉ được thừa kế một ngôi nhà ở Huntingdon cùng một điền trang nhỏ bé. Điền trang đó mang tới thu nhập khoảng 300 bảng mỗi năm, thuộc vào loại thấp nhất trong số các quý tộc nhỏ thời bấy giờ. Sau này, vào năm 1654, chính Cromwell đã nói: “Tôi sinh ra như một người quý tộc, không nổi tiếng, cũng không vô danh”. Lễ rửa tội của Cromwell diễn ra ngày 29 tháng 4 năm 1599 tại nhà thờ St. John, và thời thơ ấu ông có đi học ở trường Huntingdon Grammar School. Ông tiếp tục theo học đại học tại Đại học Sidney Sussex, Cambridge, thời bấy giờ mới được thành lập và là trường có khuynh hướng theo Thanh giáo mạnh mẽ. Ông rời trường năm 1617 sau cái chết của người cha mà chưa nhận bằng cấp gì. Sau đó, Cromwell trở về nhà ở Huntingdon và trở thành trụ cột của gia đình gồm mẹ và bảy cô chị em gái vẫn chưa lấy chồng.
Ngày 22 tháng 8 năm 1620, tại St.Giles, Cripplegate, London, Cromwell kết hôn với Elizabeth Bourchier (1598–1665). Họ có chín người con:
· Robert (1621-1639), chết khi đi học xa nhà.
· Oliver (1622-1644), chết vì bệnh sốt thương hàn khi đang là một sĩ quan quân đội.
· Bridget (1624-1681), kết hôn với Henry Ireton, rồi Charles Fleetwood.
· Richard (1626-1712), người thừa kế chức Huân tước bảo hộ của Cromwell.
· Henry (1628-1674), sau này trở thành Toàn quyền Ireland.
· Elizabeth (1629-1658), kết hôn với John Claypole.
· James (sinh và mất 1632), chết khi vừa sinh.
· Mary (1637-1713), kết hôn với Thomas Belasyse, Bá tước thứ nhất của Fauconberg.
· Frances (1638-1720), kết hôn với Robert Rich, rồi Sir John Russell.
Cha của Elizabeth, Sir James Bourchier, là một nhà kinh doanh đồ thuộc da ở London sở hữu những mảnh đất lớn tại Essex và có liên hệ chặt chẽ với những gia đình quý tộc nhỏ theo Thanh giáo ở đó. Cuộc hôn nhân giúp Cromwell có những liên hệ đầu tiên vớiOliver St John và với nhiều thành viên chủ chốt của cộng đồng giới buôn bán kinh doanh tại London, những người nhận sự che chở về chính trị từ các bá tước của Warwick và Henry Rich, bá tước thứ nhất của Hà Lan. Việc trở thành một người trong nhóm người sùng đạo này có vai trò cốt tử với sự nghiệp chính trị cũng như binh nghiệp của Cromwell. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, không có nhiều tài liệu cho thấy tôn giáo thực sự của Cromwell là gì. Lá thư đề năm 1626 của ông gửi Henry Donwhall, một bộ trưởng theo đạo Tin lành dòng Arminian cho thấy Cromwell chưa bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Thanh giáo. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy Cromwell đã trải qua những dằn vặt nội tâm liên quan tới tôn giáo của ông từ cuối những năm 1620 đến đầu những năm 1630. Ông phải điều trị về tâm lý với một bác sĩ ở London, Theodore de Mayerne vào năm 1628. Ông cũng tham gia vào một cuộc ẩu đả giữa các quý tộc nhỏ ởHHuntingdon về hương ước mới cho thị trấn và đã bị gọi ra trước hội đồng thị trấn vào năm 1630.
Năm 1631, Cromwell bán hầu hết các bất động sản của ông ở Huntingdon; có thể là hậu quả của cuộc va trạm trên, và chuyển tới một trang trại ở in St Ives, Cambridgeshire. Sự kiện này là một bước thụt lùi về địa vị xã hội của Cromwell và có lẽ đã ảnh hưởng mạnh tới tinh thần, quan điểm về tôn giáo và cảm xúc của ông. Một lá thư Cromwell viết cho vợ của Oliver St John năm 1638 thể hiện điều đó.
Năm 1636, Cromwell được thừa kế nhiều bất động sản ở Ely từ một người chú bên họ mẹ, cũng như công việc của người chú, một nhân viên thu thuế của nhà thờ Ely. Nhờ đó, thu nhập của ông tăng khoảng 300-400 bảng một năm. Khoản thu nhập này giúp ông trở lại với tầng lớp địa chủ nhỏ vào cuối những năm 1630. Ông cũng trở thành một người theo Thanh giáo thành tâm và thiết lập những mối quan hệ gia đình với các gia đình lớn ở London và Essex.
Thành viên nghị viện: 1628-1629 và 1640-1642
Cromwell trở thành thành viên của Nghị viện Huntingdon trong nhiệm kỳ 1628-1629. Ông không tạo được nhiều ảnh hưởng ở đó. Những tài liệu lưu trữ của nghị viện chỉ cho thấy một bài phát biểu không được đón nhận lắm của ông. Sau khi giải tán nghị viện này, vua Charles I cai trị mà không có nghị viện trong 11 năm tiếp theo. Khi Charles phải đối mặt với cuộc nổi dậy của những ngườiScotland, do không có đủ tiền, ông buộc phải thành lập nghị viện trở lại vào năm 1640. Cromwell trở lại là một thành viên của nghị viện Cambridge, nhưng nghị viện này chỉ tồn tại được ba tuần.
Một nghị viện thứ hai được thành lập cũng trong năm đó. Cromwell lại là nghị viên đại diện cho Cambridge. Cũng giống như giai đoạn 1628-1629, có vẻ như Cromwell có được vị trí này là nhờ sự bảo trợ của những người khác. Trong tuần đầu tiên nghị viện họp, ông được đề cử đọc kiến nghị về việc thả John Lilburne, bị bắt vì mang bất hợp pháp những văn bản về tôn giáo vào Anh từ Hà Lan, một nhiệm vụ lẽ ra không được giao cho một người còn khá là vô danh và ít ảnh hưởng như Cromwell. Trong hai năm đầu ở nghị viện, Cromwell liên hệ về mặt chính trị với một nhóm các quý tộc sùng đạo ở Thượng viện và các thành viên ở Hạ viện mà ông đã có mối liên hệ với tư cách cá nhân, tôn giáo và gia đình từ những năm 1630, như các bá tước Robert Devereux của Essex, Robert Rich củaWarwick và Francis Russell của Bedford, Oliver St John, và tử tước William Fiennes của Saye và Sele. Trong giai đoạn này, nhóm quý tộc nói trên đang có dự định về một cuộc cải cách: quyền hành pháp do những nghị viện thông thường kiểm tra và mở rộng một cách vừa phải quyền tự do tín ngưỡng. Cromwell có lẽ cũng có một vai trò nào đó trong những mưu toan chính trị của nhóm này. Tháng 5 năm 1641, Cromwell đã thúc đẩy lần đọc thứ hai của Bộ luật nghị viện thường niên và sau đó đóng vai trò trong việc soạn thảo đạo luật về việc loại bỏ quy chế giám mục quản lý nhà thờ.
Chỉ huy quân đội: 1642-1646
Do không thể thống nhất trong việc giải quyết vấn đề Scotland, xung đột vũ trang giữa nghị viện và vua Charles I bùng nổ vào mùa thu năm 1642. Trước khi gia nhập lực lượng của nghị viện, kinh nghiệm quân sự duy nhất của Cromwell là những đợt huấn luyện với lực lượng dân quân địa phương. Vào lúc đó, ở tuổi 43, ông chiêu mộ được một đơn vị kỵ binh ởCambridgeshire sau khi ngăn một đoàn vận chuyển bạc từ các đoàn thể ở Cambridge cho nhà vua. Cromwell cùng đội quân của mình sau đó tham gia trận đánh quyết định vào tháng 10 năm 1642, trận Edgehill. Đơn vị của ông được tăng lên thành một trung đoàn đầy đủ vào mùa đông năm 1642 và là một phần của liên quân phía đông do Edward Montagu, tử tước Manchester, chỉ huy. Cromwell có thêm kinh nghiệm và giành được chiến thắng trong nhiều trận đánh ở phía đông đảo Anh trong năm 1643, đáng kể nhất là trận Gainsborough ngày 28 tháng 7. Sau trận đánh này, Cromwell được cử làm thống đốc Ely và được thăng hàm đại tá trong liên quân phía đông.
Vào thời gian diễn ra trận Marston Moor tháng 7 năm 1644, Cromwell được thăng hàm thiếu tướng kỵ binh trong quân đoàn Manchester. Thành công của đội kỵ binh do ông chỉ huy trong việc chọc thủng hàng rào kỵ binh của quân hoàng gia rồi tấn công bộ binh từ phía sau tại Marston Moor là một yếu tố quan trọng đóng góp vào thắng lợi của phe nghị viện trong trận đánh đó. Cromwell luôn dẫn đầu đội quân của mình và đã bị một vết thương ở đầu. Cháu trai của ông, Valentine Walton, tử trận ở Marston Moor, và Cromwell viết một bức thư rất nổi tiếng cho cha của anh, anh rể của ông, kể lại cái chết can đảm của người lính. Trận Marston Moor giúp phe nghị viện kiểm soát miền bắc nước Anh, nhưng phe hoàng gia vẫn còn kháng cự.
Trận Newbury lần thứ hai bất phân thắng bại diễn ra vào tháng 10 năm 1644 đồng nghĩa với việc cho tới cuối năm 1644, cuộc chiến vẫn chưa có dấu hiệu gì sẽ kết thúc. Trong trận Newbury, quân đoàn của tử tước Manchester đã để quân của nhà vua phá vây, dẫn đến bất đồng trong quan điểm của Cromwell với Manchester. Cromwell cho rằng ông này không có đủ nhiệt tình để chỉ huy cuộc chiến. Manchester thì kết tội Cromwell chiêu mộ những người “thuộc dòng dõi thấp hèn” làm sĩ quan quân đội. Cromwell đáp trả rằng: “Nếu chọn những người trung thực làm đội trưởng kỵ binh, những người trung thực khác sẽ theo họ… Tôi thà có một đội trưởng khoác áo vải thô biết rõ anh ta chiến đấu cho cái gì và yêu cái mà mình chiến đấu cho còn hơn là một người mà ông gọi là quý tộc, nhưng chỉ có mỗi thế thôi”. Lúc đó, Cromwell cũng bất đồng quan điểm với thiếu tướng Lawrence Crawford, một nhân vật của giáo hội Scotland liên minh với quân nghị viện của Manchester, người phản đối việc Cromwell khuyến khích sự tham gia của những người độc lập không theo chính thống giáo vào quân đội. Những khác biệt của Cromwell với các đồng minh người Scotland biến thành tình trạng thù địch công khai vào năm 1648 và giai đoạn 1650-1651.
Đầu năm 1645, nghị viện Anh thông qua một sắc lệnh buộc các thành viên của cả Hạ viện và Thượng viện, bao gồm cả tử tước Manchester, phải lựa chọn giữa một vị trí quản lý nhà nước hoặc chỉ huy quân đội. Tất cả các nghị viên, trừ Cromwell, đang làm nhiệm vụ trên chiến trường, quyết định từ bỏ các vị trí của mình trong quân đội. Sắc lệnh nói trên còn quy định việc tổ chức lại quân đội trên cơ sở quốc gia, thay thế cho những liên quân mang tính địa phương. Tháng 4 năm 1645, quân đội mới được thành lập với tổng tư lệnh là Sir Thomas Fairfax và Cromwell là phó tổng tư lệnh, hàm trung tướng kỵ binh. Lúc đó, quân số chiến trường của phe nghị viên gần gấp đôi của nhà vua. Trong trận Naseby tháng 6 năm 1645, quân nghị viên giành một chiến thắng hủy diệt trước quân nhà vua. Cromwell đã chỉ huy cánh quân của ông một cách xuất sắc tại Naseby và lại một lần nữa hạ gục đội kỵ binh hoàng gia. Trong trận Langport ngày 10 tháng 7 năm 1645, Cromwell tham gia trong thất bại của đội quân đáng kể cuối cùng của lực lượng hoàng gia. Hai trận đánh đó đã kết thúc hy vọng chiến thắng của nhà vua và các chiến dịch của phe nghị viện sau đó chỉ còn là tấn công, bao vây và đánh chiếm các vị trí phòng thủ của quân hoàng gia ở phía tây nước Anh. Tháng 10 năm 1645, Cromwell bao vây và chiếm đượcBasing House, nơi ông đã giết hàng trăm quân đóng giữ của phe hoàng gia sau khi họ đã đầu hàng. Cromwell cũng tham gia các trận vây hãm ở Bridgwater, Sherborne, Bristol, Devizes, và Winchester, rồi sau đó trải qua nửa đầu năm 1646 trong việc dập tắt các kháng cự cuối cùng của quân đội hoàng gia ở Devon và Cornwall. Charles I đầu hàng những người Scotland ngày 5 tháng 5 năm 1646, cuộc nội chiến kết thúc. Cromwell và Fairfax chính thức chấp nhận sự đầu hàng của phe hoàng gia ở Oxford vào tháng 6 năm đó.
Cromwell không hề được huấn luyện bài bản về chiến lược quân sự và ông cũng chỉ sử dụng đội hình kỵ binh ba hàng rất phổ biến thời bấy giờ. Những điểm mạnh của ông nằm ở khả năng lãnh đạo, huấn luyện, kỷ luật và đạo đức của một người cầm quân với binh sĩ dưới quyền. Trong một trận đánh mà cả hai bên đều sử dụng chủ yếu là quân không chính quy, những phẩm chất này trở nên đặc biệt quan trọng và có lẽ đã đóng góp vào chiến thắng quyết định của Cromwell.
Tham gia chính trường: 1647–1649
Tháng 2 năm 1647, Cromwell bị ốm và ông phải xa đời sống chính trị hơn một tháng. Vào lúc ông hồi phục, những thành viên nghị viện đang bị chia rẽ vì vấn đề liên quan đến nhà vua. Phần lớn các thành viên ở cả hai viện hướng tới một giải pháp làm hài lòng quân đội liên minh Scotland, giải tán quân đội mới và khôi phục ngai vàng cho Charles I đổi lấy việc giành một vùng đất riêng cho giáo hội Scotland. Cromwell phản đối hệ thống giáo hội của những người Scotland mà ông cho rằng sẽ thay thế chế độ quân chủ bằng một hình thức chuyên chế khác. Quân đội mới, bị chọc giận vì không được nghị viện trả khoản tiền lương mà họ còn nợ, kiến nghị chống lại những thay đổi này, nhưng Hạ viện đã bác bỏ kiến nghị đó. Tháng 5 năm 1647, Cromwell được cử tới tổng hành dinh quân đội ởSaffron Walden để thương lượng, nhưng hai bên không đạt được thỏa thuận. Tháng 6 năm 1647, một toán kỵ binh do Cornet George Joyce chỉ huy cướp lấy nhà vua khỏi sự giam giữ của nghị viện. Dù Cromwell có gặp Joyce vào ngày 31 tháng 5, nhưng cứ liệu lịch sử chưa đủ để khẳng định ông có vai trò như thế nào trong sự kiện đó.
Cromwell và Henry Ireton sau đó soạn thảo một bản tuyên ngôn Heads of Proposals đề xuất kiểm tra quyền lực của nhánh hành pháp, thiết lập nên những định chế dân cử mới và phục hồi thể chế quản lý không bắt buộc với nhà thờ. Rất nhiều tướng lĩnh quân đội, như những người theo phong trào Levellers do John Lilburne đứng đầu, cho rằng như thế là chưa đủ để mang tới sự bình đẳng về chính trị cho tất cả mọi người, dẫn đến mâu thuẫn gay gắt ở Putney trong mùa thu năm 1647 giữa một bên là Cromwell, Ireton và bên kia là quân đội. Vụ mâu thuẫn Putney đã không đi tới giải pháp nào. Cuộc tranh luận đó, cùng với việc Charles I trốn thoát khỏi Hampton Court ngày 12 tháng 11, đã khiến Cromwell có thái độ cứng rắn hơn đối với nhà vua.
Thất bại trong việc đạt được một thỏa thuận chính trị với nhà vua đã dẫn đến cuộc nội chiến Anh lần thứ hai vào năm 1648 khi nhà vua tìm cách trở lại ngai vàng bằng vũ lực. Cromwell đánh bại một cuộc nổi dậy của quân bảo hoàng ở miền nam xứ Wales rồi sau đó hành quân lên miền bắc đối phó với lực lượng Scotland có khuynh hướng bảo hoàng. Trong trận Preston, Cromwell, lần đầu tiên nắm toàn quyền chỉ huy tối cao quân đội, đã dẫn đầu một đội quân 9.000 người giành một chiến thắng vẻ vang trước quân địch có quân số đông gấp đôi.
Tháng 12 năm 1648, nhóm các nghị viên muốn tiếp tục thương lượng với nhà vua bị khai trừ khỏi nghị viện do sức ép từ nhóm lính vũ trang dưới sự chỉ huy của đại tá Thomas Pride, tức sự kiện Pride’s Purge. Những nghị viên còn lại, được biết tới với tên gọi Nghị viện Rump, nhất trí rằng Charles I sẽ bị xét xử dựa trên cáo buộc tội phản quốc. Cromwell lúc bấy giờ vẫn còn ở miền bắc nước Anh để đối phó với sự chống cự của quân đội bảo hoàng. Tuy nhiên, sau khi ông trở lại London, vào ngày diễn ra sự kiện Pride’s Purge, Cromwell nhanh chóng trở thành một người ủng hộ cương quyết những ai muốn đem nhà vua ra xét xử và tuyên án tử hình. Cromwell tin rằng giết Charles I sẽ là cách duy nhất chấm dứt cuộc nội chiến. Lệnh tử hình nhà vua được ký bởi 59 thành viên chủ tọa phiên tòa xét xử, bao gồm Cromwell (là người thứ ba ký vào bản án). Charles I bị tử hình ngày 30 tháng 1 năm 1649.
PAUL GARDNER ALLEN - Nhà đầu tư người Mỹ, đồng sáng lập Microsoft
Paul Gardner Allen (sinh ngày 21 tháng 1 năm 1953 ở Seattle, Washington) là một nhà đầu tư người Mỹ, đồng sáng lập Microsoft với Bill Gates. Ông thường xuyên xuất hiện trong danh sách những người giàu nhất thế giới; vào năm 2007, Forbes xếp ông là người Mỹ giàu thứ năm, trị giá tài sản ước tính 18 tỷ Đô la Mỹ. Ông là Chủ tịch củaCharter Communications, nhưng không còn là cổ đông của DreamWorks Animation nữa. Vừa rồi ông được mời tham dự Học viện Khoa học và Nghệ thuật Hoạt hình (AMPAS).
Allen cũng sở hữu hai câu lạc bộ thể thao: Seattle Seahawks trong Giải Bóng đá Mỹ Quốc gia và Portland Trail Blazers trong Liên hiệp Bóng rổ Quốc gia.
Năm 2007, Allen nằm trong danh sách 100 người Ảnh hưởng nhất Thế giới của tạp chí Time.
Hiện ông đang định cư tại Mercer Island, Washington.
Những năm đầu tiên
Paul Gardner Allen sinh tại Seattle, Washington trong gia đình Kenneth S. Allen, phó giám đốc của thư viện trường Đại học Washington, và Faye G. Allen, vào năm 1953. Allen học tại Lakeside School, một ngôi trường tư thục uy tín ở Seattle, và kết bạn với Gates, người học dưới ông hai lớp nhưng chia sẻ lòng đam mê máy tính với nhau. Allen là một học sinh gương mẫu ở Lakeside School. Họ đã sử dụng máy điện báo của trường để phát triển kỹ năng lập trình trên vài hệ thống máy chia sẻ thời gian. Sau khi tốt nghiệp, Allen nhập học tại trường Đại học Tiểu bang Washington, và là một thành viên tích cực của Phi Kappa Theta Fraternity, mặc dù ông bỏ học sau đó hai năm để làm lập trình viên cho Honeywell ở Boston, ở đó ông gặp lại người bạn cũ. Sau đó ông đã thuyết phục Gates bỏ học ở trường Đại học Harvard để thành lập Microsoft.
Microsoft
Cùng với Bill Gates, ông đã thành lập Microsoft (ban đầu là "Micro-Soft") tại Albuquerque, New Mexico, năm 1975, và bắt đầu bán ngôn ngữ lập trình thông dịch BASIC. Năm 1980, Allen là người đầu tiên mở đầu cho sự đi lên của khi mua lại hệ điều hành có tên là QDOSvới giá 50.000 đô la Mỹ. Theo hạn chót của IBM, Gates và Allen cảm thấy họ không có đủ thời gian để phát triển một hệ điều hành mới; do đó họ đã mua lại QDOS với chức năng hoàn chỉnh và sửa lại mã nguồn để phù hợp với yêu cầu của IBM. Microsoft đã thắng được hợp đồng cung cấp chương trình hoàn thiện để sử dụng làm hệ điều hành trong loạt máy để bàn mới của IBM. Nó đã trở thành nền tảng cho sự phát triển của Microsoft.
Allen từ chức khỏi Microsoft vào năm 1983 sau khi bị chẩn đoán mắc bệnh Hodgkin, sau đó đã được chữa trị thành công sau vài tháng chữa trị bằng phóng xạ và ghép thần kinh xương.
Vào tháng 11 năm 2000, Allen rút khỏi ban quản trị của Microsoft nhưng được nhờ tư vấn với vị trí cố vấn chiến lược cấp cao của ban điều hành công ty. Ông đã thậm chí nới rộng hơn khoảng cách giữa mình với Microsoft với việc bán 68 triệu cổ phiếu của Microsoft. Có người nói ông hiện vẫn còn sở hữu khoảng 138 triệu cổ phiếu.
Lòng từ thiện
Phần lớn thành công của Paul Allen đã được hiến cho các dịch vụ sức khỏe và dân sinh và cho sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Quỹ gia đình Paul G. Allen được thành lập vào năm 1986 để quản lý những khoản đóng góp. Thông qua quỹ, Allen đã tặng gần 30 triệu Đô la Mỹ hàng năm. Khoảng 75 phần trăm số tiền của Quỹ được tặng cho những tổ chức phi lợi nhuận ở Seattle và tiểu bang Washington. 25 phần trăm còn lại được phân phối cho Portland, Oregon và những thành phố khác ở Tây Bắc Thái Bình Dương. Allen cũng đóng góp thông qua những dự án từ thiện khác như "lòng từ thiện mạo hiểm". Dự án nổi tiếng nhất trong số đó là Dự án Âm nhạc Kinh nghiệm, Học viện Allen về Não học, và Tìm kiếm Trí thông minh ngoài Trái đất thông qua Ma trận Kính viễn vọng Allen. Tổng số tiền từ thiện của Paul Allen vào năm 2005 ươc tính trên 43 triệu Đô la Mỹ.
Trường Đại học Washington là nơi nhận được phần lớn tiền đóng góp của Paul Allen. Vào cuối thập niên 1980, Allen đã đóng góp 18 triệu đô la Mỹ để xây thư viện mới đặt tên cha của ông, Kenneth S. Allen. Năm 2003 5 triệu đô la Mỹ đã được tặng để thành lập Trung tâm Nghệ thuật Thị giác Faye G. Allen, đặt theo tên của mẹ ông. Allen cũng là người đóng góp tư nhân lớn nhất (14 triệu đô la Mỹ) và được đặt theo tên ông Trung tâm Khoa học và Kỹ thuật Máy tính Paul G. Allen (hoàn thành năm 2004). Trong suốt những năm qua, Allen đã đóng góp hàng triệu đô la Mỹ cho Khoa Y trường Đại học Washington, gần đây nhất là 3,2 triệu đô la dành cho nghiên cứu viêm tuyến tiền liệt.
Tên ông đã được đặt cho một giống ruồi hoa vì sự đóng góp của ông cho ngành Dipterology.
Năm 1993, Paul Allen đã tài trợ tiền cho một vụ kiện hai năm trong đó gia đình của nghệ sĩ ghi-ta rock Jimi Hendrix đòi lại bản quyền cho nhạc của ông ta sau khi nhà quản lý di sản được cho là đã bán khi chưa được phép. Allen cũng tài trợ cho việc mua những di sản của Hendrix (bao gồm cây guitar Hendrix đã chơi ở Woodstock và cho trưng bày nó ở triển lãm Dự án Kinh nghiệm Âm nhạc.
Nỗ lực đầu tư và phát triển bất động sản ở Seattle
Allen là nhà phát triển và đầu tư chính trong sự phát triển gây tranh cãi của cộng đồng South Lake Union ở Seattle thành trung tâm công nghệ sinh học. Sự phát triển này đã bị phê phán là sự đầu tư cho bất động sản cho Vulcan Inc. được địa phương hỗ trợ. Những lo lắng về sự thiếu hụt nhà cho người thu nhập thấp rất đáng chú ý. Allen đã đầu tư khoảng 200 triệu đô la Mỹ vào năm 2005, và đã đóng góp vào quỹ "South Lake Union Trolley" của thành phố từ Trung tâm WestLake đến phía nam của Lake Union bang Seattle.
Allen là người tài trợ và là chủ của Dự án Trải nghiệm Âm nhạc.
Những đầu tư khác
Forbes báo cáo rằng Allen sẽ đầu tư 1,6 tỷ đô la vào Bangladesh. Phần lớn số tiền nói trên sẽ được dùng để xây nhà máy điện và phần còn lại để xây nhà máy phân bón.
Cùng một lúc, Quỹ đầu tư mạo hiểm Vulcan của Allen sở hữu TechTV, một kênh truyền hình cáp và vệ tinh 24-giờ ở San Francisco, chiếu thời sự và giới thiệu máy tính, công nghệ và Internet.
Liên quan đến thể thao
Năm 1988, Allen mua lại Portland Trail Blazers đội bóng ở giải NBA từ Harry Glickman với giá 70 triệu đô la, từ đó phát triển và quyên góp cho Sân vận động Rose Garden vào năm 1993. Một trong những khoảnh khắc đáng nhớ nhất của Allen với tư cách là chủ của Trail Blazers là sự tham gia của ông vào cuộc thi ăn hot dog vào giờ nghỉ của trận đấu với Denver Nuggets vào năm 2002. Allen đã ăn 10 cái hot dog trong 12 phút, nhưng thua nhà vô địch thế giới Takeru Kobayashi.
Năm 1997, Allen mua lại đội Seattle Seahawks NFL khi người chủ cũ Ken Behring đe dọa chuyển Seahawks xuống phía nam California. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của sân vận động mới của Seahawks, Qwest Field, mặc dù nó được góp tiền chủ yếu bằng lợi nhuận từ thuế.
Từ năm 2006, Allen đã hỏi những quan chức của Portland và Oregon để hỗ trợ về tài chính cho Blazers, mà ông dự tính sẽ mất khoảng 100 triệu đô la trong ba năm tới. Thị trưởng Portland Tom Potter đang khước từ đề nghị này.
Theo bản bài báo phát hành năm 2006 của Forbes, Blazers được định giá xấp xỉ 300 triệu đô la.
Ngày 27 tháng 4 năm 2007, có tin đồn rằng Allen sẽ đạt được thương vụ mua lại câu lạc bộ bóng đá Anh Southampton. Một nguồn tin gần gũi đã nói "ông tin rằng có một nguồn lợi cho sự đầu tư dài hạn vào Bóng đá Anh. Southampton là một người khổng lồ ngủ quên, một câu lạc bộ gia đình với những giá trị truyền thống, và chúng tôi nhìn thấy giá trị của nó trong thương hiệu toàn cầu”
SpaceShipOne
Năm 2004, Allen đã xác nhận rằng ông nhà đầu tư duy nhất đằng sau phi thuyền thương mại ngoài tầm mắt SpaceShipOne của Scaled Composites của Burt Rutan. SpaceShipOne là nỗ lực tài chính cá nhận đầu tiên đưa thành công con người trong không gian nhìn thấy được và đã chiến thắng trong cuộc thi Ansari X PRIZE.
Ung thư
Ngày 15 tháng 11, 2009, Jody Allen, em gái của Paul Allen và CEO của Vulcan thông báo ra đại chúng là Paul được chuẩn đoán bị Non-Hodgkin lymphoma, một triệu chứng của ung thư.
Octopus
Năm 2003, sự hạ thủy của con tàu Octopus dài 127m của Paul Allen đã đảm bảo vị trí của nó là một trong những du thuyền lớn nhất thế giới. Nó hiện xếp thứ năm trong Danh sách những du thuyền dài nhất. Allen còn có hai chiếc du thuyền khác.
Đời sống riêng tư
Paul Allen sống độc thân. Năm 2005 New York Daily News nói rằng ông đang hẹn hò với nữ diễn viên và là cựu nữ hoàng sắc đẹp Laura Harring, cùng đóng vai chính trong Mulholland Drive, trong khoảng sáu tháng.
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2007, Allen nhận được bằng Tiến sỹ Danh dự của Học viện Công nghệ Liên bang (Thụy Sĩ).
WILLIAM HENRY BILL GATES III - Doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch của tập đoàn Microsoft
William Henry "Bill" Gates III (sinh ngày 28 tháng 10, 1955) là một doanh nhân người Mỹ, nhà từ thiện, tác giả và chủ tịch tập đoàn Microsoft, hãng phần mềm khổng lồ mà ông cùng với Paul Allen đã sáng lập ra. Ông luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất trên thế giới và là người giàu nhất thế giới từ 1995 tới 2009, ngoại trừ năm 2008, khi ông chỉ xếp thứ ba. Trong sự nghiệp ở Microsoft, Gates làm CEO và kiến trúc sư trưởng định hướng cho sự phát triển của tập đoàn. Hiện tại, ông là cổ đông với tư cách cá nhân lớn nhất trong tập đoàn, nắm giữ trên 8 phần trăm cổ phiếu. Ông cũng là tác giả và đồng tác giả của một số cuốn sách.
Gates là một trong những doanh nhân nổi tiếng về cuộc cách mạng máy tính cá nhân. Mặc dù nhiều người ngưỡng mộ ông, nhiều đối thủ cạnh tranh đã chỉ trích những chiến thuật trong kinh doanh của ông, mà họ coi là cạnh tranh không lành mạnh hay độc quyền và công ty của ông đã phải chịu một số vụ kiện tụng. Trong giai đoạn gần cuối của sự nghiệp, Gates đã theo đuổi một số nỗ lực từ thiện, quyên góp và ủng hộ một số tiền lớn cho các tổ chức từ thiện và nghiên cứu khoa học thông qua Quỹ Bill & Melinda Gates, được thành lập năm 2000.
Gates đã thôi giữ chức giám đốc điều hành của Microsoft từ tháng 1 năm 2000 nhưng ông vẫn còn là chủ tịch và kiến trúc sư trưởng về phần mềm tại tập đoàn. Tháng 6 năm 2006, Gates thông báo ông sẽ chỉ giành một phần thời gian làm việc cho Microsoft và giành nhiều thời gian hơn cho Quỹ Bill & Melinda Gates. Bill dần dần chuyển vị trí kiến trúc sư trưởng sang cho Ray Ozzie, và vị trí giám đốc chiến lược và nghiên cứu sang cho Craig Mundie. Ngày làm việc toàn phần cuối cùng giành cho Microsoft của Gates là ngày 27 tháng 6 năm 2008. Ông vẫn còn giữ cương vị chủ tịch Microsoft nhưng không điều hành hoạt động tập đoàn.
Tiểu sử
Bill Gates sinh ra ở Seattle, Washington, bố là William H. Gates, Sr. và mẹ Mary Maxwell Gates, có nguồn gốc là những người Anh, Đức và Scotland-Ailen. Ông lớn lên trong gia đình khá giả; bố ông là một luật sư có tiếng, mẹ ông nằm trong ban giám đốc của công ty tài chính First Interstate BancSystem và United Way, và ông ngoại ông, J. W. Maxwell là chủ tịch của một ngân hàng liên bang. Gates có chị gái tên là Kristi (Kristianne), và một em gái tên là Libby. Ông là đời thứ tư trong gia tộc, nhưng người ta biết đến ông như là William Gates III hay "Trey" (ba) do bố ông đã bỏ hậu tố "III" trong tên gọi. Khi còn nhỏ, nghề nghiệp của bố mẹ Bill Gates đã làm cho ông có ước mơ trở thành luật sư. Khi Bill còn trẻ, gia đình ông thường tham dự vào một giáo đoàn của hội Tin lành.
Năm 13 tuổi, ông vào học trường Lakeside, một trường dự bị cho các học sinh giỏi. Khi ông học lớp tám, câu lạc bộ các bà mẹ (phụ huynh-Mothers Club) ở trường này đã dùng một khoản tiền nhờ việc bán các đồ dùng đã qua sử dụng để mua một máy đánh chữ cơ điện Model 33 ASR và một máy tính của hãng General Electric (GE) cho các học sinh của trường. Gates thấy thích thú khi lập trình trên máy tính của GE bằng ngôn ngữ BASIC, và ông đã không đăng ký vào các lớp học toán để theo đuổi sở thích của mình. Ông đã viết chương trình đầu tiên trên máy tính này đó là các thao tác của trò chơi tic-tac-toe cho phép người chơi thi đấu với máy tính. Chiếc máy đã thu hút Gates và tự đặt câu hỏi làm sao mà chiếc máy có thể luôn luôn thực thi các mã phần mềm một cách hoàn hảo như vậy. Khi ông nhớ lại thời điểm này, ông nói, "Chỉ cần một cái gì đó rõ ràng cho chiếc máy" ("There was just something neat about the machine"). Khi quỹ của hội phụ huynh đã hết, ông và các học sinh khác chuyển sang các hệ máy khác bao gồm máy tính mini PDP của hãng DEC. Hãng Computer Center Corporation (CCC) sáng chế ra PDP-10 đã cấm bốn học sinh trường Lakeside bao gồm Bill Gates, Paul Allen, Ric Weiland, và Kent Evans sử dụng hệ máy tính này trong mùa hè sau khi bốn người này đã khai thác các lỗi trong hệ điều hành để nhận được thêm thời gian sử dụng hệ máy tính này.
Khi hết hạn cấm, bốn học sinh đề nghị với công ty CCC là họ sẽ tìm các lỗi trong phần mềm của CCC và đổi lại họ được sử dụng các máy tính của công ty này. Thay vì sử dụng các hệ thống thông qua điện báo, Gates đã đến văn phòng CCC và nghiên cứu mã nguồn cho các chương trình khác nhau chạy trên hệ thống, bao gồm cả chương trình trong FORTRAN, LISP, và ngôn ngữ máy. Việc thỏa thuận với CCC bị kết thúc vào năm 1970, khi công ty này bị phá sản. Một năm sau, Information Sciences, Inc. đã thuê bốn học sinh trường Lakeside để viết một chương trình trả lương bằng ngôn ngữ COBOL, cho phép họ có thời gian sử dụng máy tính và bản quyền phần mềm của công ty. Sau khi những người quản lý ở trường biết được khả năng lập trình của ông, Bill đã được giao nhiệm vụ viết một chương trình lập thời khóa biểu cho các lớp học. Ông đã sửa các mã sao cho chương trình sắp xếp ông vào các lớp có nhiều nữ sinh nhất. Sau này ông nhận xét "thật khó có thể tách tôi ra khỏi máy tính mà rõ ràng tôi có thể chứng minh sự thành công từ nó" ("it was hard to tear myself away from a machine at which I could so unambiguously demonstrate success"). Lúc 17 tuổi, Gates lập kế hoạch kinh doanh với Allen đó là Traf-O-Data nhằm đếm lưu lượng giao thông dựa trên bộ xử lý Intel 8008.
Gates tốt nghiệp trường Lakeside vào năm 1973. Ông đạt được 1590 trên 1600 điểm ở kỳ thi SAT và đỗ vào trường Harvard College trong mùa thu năm 1973. Khi học ở Harvard, ông đã quen Steve Ballmer, người sau này kế vị chức CEO của Microsoft.
Trong năm học thứ hai, Gates nghĩ ra thuật toán trong vấn đề sắp xếp bánh kếp, bài toán được xếp vào một trong những vấn đề chưa giải được được nêu ra trong lớp toán tổ hợp của giáo sư Harry Lewis, một trong những người thầy của ông. Thuật toán của Gates đã giữ kỉ lục là thuật toán có thời gian giải nhanh nhất trên 30 năm; và thuật toán sau này chỉ nhanh hơn nó khoảng một phần trăm. Phương pháp của ông sau này được viết thành một bài báo chung với nhà khoa học máy tính ở Harvard là Christos Papadimitriou.
Gates không có kế hoạch học tập cụ thể ở Harvard và ông đã giành nhiều thời gian bên cạnh các máy tính ở trường. Ông vẫn liên lạc với Paul Allen, cùng tham gia vào Honeywell trong mùa hè năm 1974. Vào năm sau, chứng kiến sự ra đời của máy MITS Altair 8800 trên nền vi xử lý Intel 8080, lúc này Gates và Allen nhận ra đây là cơ hội cho họ sáng lập ra một công ty về phần mềm máy tính. Ông đã nói quyết định này với bố mẹ ông, họ đã ủng hộ ông sau khi thấy được ông sẽ cần bao nhiêu tiền để bắt đầu lập nghiệp với công ty.
Microsoft
BASIC
Sau khi đọc bài báo trên tạp chí Popular Electronics số tháng 1, 1975 về khả năng của máy Altair 8800, Gates đã liên lạc với công ty đã sáng chế ra chiếc mày này là Micro Instrumentation and Telemetry Systems (MITS), để công ty này có thể mời ông và những người khác làm việc với chiếc máy trên nền tảng trình thông dịch BASIC. Thực tế, Gates và Allen đã không được tiếp xúc với máy Altair và họ đã không viết mã chương trình cho nó; hai người chỉ muốn thử xem công ty MITS có muốn họ cộng tác hay không. Giám đốc MITS là Ed Roberts đồng ý cho họ sử dụng phiên bản demo, và chỉ trong vài tuần họ đã phát triển chương trình giả lập máy Altair chạy trên một máy tính mini, và sau đó là ngôn ngữ BASIC. Cuộc thử nghiệm chiếc máy đã diễn ra tại trụ sở của MITS ở Albuquerque đã thành công và kết quả là một bản thỏa thuận với MITS để công ty phân phối trình thông dịch dưới tên gọi Altair BASIC. Paul Allen được mời làm việc cho MITS, và Gates đã không có mặt ở trường Harvard để tới làm việc cùng Allen ở MITS tại Albuquerque vào tháng 11 năm 1975. Họ đặt tên cho sự hợp tác giữa hai người là "Micro-Soft" và trụ sở đầu tiên của công ty đặt ở Albuquerque. Cũng trong năm này, dấu gạch ngang đã được bỏ ra khỏi tên của công ty, và vào ngày 26 tháng 11 năm 1976, thương hiệu "Microsoft" đã được đăng ký tại Văn phòng bang New Mexico. Do đó mà Gates không thể hoàn thành khóa học tại Harvard được.
BASIC của Microsoft được phổ biến trong giới đam mê máy tính, nhưng Gates đã phát hiện ra rằng bản sao chép trước khi phần mềm được đưa ra thị trường đã bị rò rỉ ra cộng đồng và nhanh chóng nó được sao chép và phân tán. Tháng 2 năm 1976, Gates viết "Lá thư mở đến những người đam mê máy tính" trong chuyên san của MITS nói rằng MITS không thể tiếp tục sản xuất phần mềm, phân phối, và duy trì chất lượng cao của phần mềm mà không trả phí cho ông. Lá thư này không được nhiều người đam mê máy tính biết đến nhưng Gates vẫn khăng khăng tin rằng công ty phải trả khoản phí do ông đòi hỏi. Microsoft tách ra khỏi MITS vào cuối 1976, công ty tiếp tục phát triển các ngôn ngữ lập trình cho các hệ máy khác nhau. Ngày 1 tháng 1 năm 1979, công ty chuyển trụ sở từ Albuquerque đến Bellevue, Washington.
Những năm đầu của Microsoft, mọi nhân viên trong công ty cũng phải kiêm luôn hoạt động kinh doanh của nó. Gates giám sát khâu kinh doanh đến từng chi tiết, nhưng vẫn tiếp tục tham gia viết mã chương trình. Trong 5 năm đầu, cá nhân ông thường đánh giá từng dòng lệnh trong các phần mềm đóng gói của công ty, và thường viết lại từng phần của chúng cho đến khi ông thấy phù hợp.
Đối tác với IBM
Năm 1980, IBM thông qua Microsoft để viết trình thông dịch BASIC cho máy tính cá nhân sắp được tung ra của họ là máy IBM PC. Khi người đại diện của IBM đề cập đến họ cần một hệ điều hành trên các máy tính của họ, Gates đã giới thiệu họ với Digital Research(DRI), công ty viết hệ điều hành CP/M được sử dụng rộng rãi thời đó. Thỏa thuận giữa IBM với Digital Research đạt được kết quả không như mong đợi, và hai bên đã không đạt đến được thỏa thuận về đăng ký bản quyền. Đại diện của IBM là Jack Sams nhắc đến sự khó khăn trong vấn đề đăng ký trong cuộc gặp sau đó giữa ông và Bill Gates và nói với ông về đưa ra một hệ điều hành chấp nhận được. Vài tuần sau, Gates đề xuất sử dụng 86-DOS (QDOS), một hệ điều hành tương tự như CP/M do Tim Paterson của hãng Seattle Computer Products (SCP) viết cho các phần cứng có tính năng tương tự như PC. Microsoft đã thực hiện một thỏa thuận với SCP để trở thành đại lý cấp phép độc quyền, và sau đó là chủ sở hữu hoàn toàn đối với 86-DOS. Sau khi nâng cấp hệ điều hành cho phù hợp với PC, Microsoft chuyển giao nó cho IBM với tên gọi PC-DOS với phí một lần trao đổi là $50.000. Gates không đưa ra khả năng chuyển giao bản quyền của hệ điều hành, bởi vì ông tin rằng các nhà sản xuất phần cứng khác sẽ sản xuất PC dựa trên dòng máy của IBM. Và đúng là như vậy, nhờ thị phần lớn của MS-DOS làm cho Microsoft trở thành hãng phần mềm lớn trong công nghiệp phần mềm.
Gates giám sát quá trình tái cơ cấu Microsoft vào ngày 25 tháng 6 năm 1981, trong đó kết hợp lại công ty ở bang Washington và Gates trở thành Chủ tịch và Chủ tịch hội đồng quản trị của Microsoft.
Windows
Microsoft phát hành phiên bản bán lẻ đầu tiên của Microsoft Windows vào ngày 20 tháng 11 năm 1985, và trong tháng 8, công ty ký hợp đồng với IBM nhằm phát triển một hệ điều hành riêng biệt gọi là OS/2. Mặc dù hai công ty đã phát triển thành công phiên bản đầu tiên của hệ điều hành mới, nhưng sự gắn kết giữa những ý tưởng sáng tạo khác nhau đã dần làm suy yếu quan hệ đối tác. Gates phân phát một bản ghi nhớ nội bộ ngày 16 tháng 5 năm 1991 tuyên bố chấm dứt sự hợp tác trong OS/2 và Microsoft sẽ chuyển sang nỗ lực phát triển nhân hệ điều hành Windows NT.
Phong cách quản lý
Từ khi thành lập Microsoft năm 1975 cho đến 2006, Gates có trách nhiệm chính trong chiến lược sản phẩm của công ty. Ông đã tích cực mở rộng phạm vi sản phẩm của công ty, và ở bất cứ nơi nào Microsoft đạt được vị trí thống trị của nó thì ông mạnh mẽ bảo vệ vị thế này. Ông đạt được danh tiếng vượt xa so với những người khác; vào đầu năm 1981 một giám đốc điều hành công nghiệp phàn nàn trước công chúng rằng: "Gates có tính xấu là không chịu nghe và trả lời bằng điện thoại." Một vị giám đốc khác nhớ lại rằng sau khi chỉ cho Gates cách chơi một trò trơi điện tử và ông đã đánh bại anh ta với tỷ số 35 trên 37 ván, và khi hai người gặp lại nhau một tháng sau thì Gates "đã giành chiến thắng hoặc mê mẩn với trò chơi. Anh đã nghiên cứu trò này cho đến khi có thể giải được nó. Đây đúng là một đối thủ cạnh tranh."
Là giám đốc điều hành, Gates thường xuyên gặp gỡ với các nhà quản lý cấp cao và quản lý chương trình phần mềm của Microsoft. Những người tham dự các cuộc họp này mô tả ông luôn sẵn sàng tranh luận trực tiếp, hoặc trách móc các thành viên quản lý để mọi người nhận thấy được các lỗ hổng trong chiến lược kinh doanh của họ hoặc những rủi ro trong đề xuất khi tính đến lợi ích lâu dài của công ty.
Ông thường ngắt lời người thuyết trình với những câu phê phán như, "tại sao anh không từ bỏquyền chọn của mình và gia nhập Peace Corps?" Những người này sẽ phải bảo vệ đề xuất của mình trước những phản biện của ông cho đến khi người đó hoàn toàn thuyết phục được Gates hay không. Khi những người cấp dưới có vẻ chần chừ và muốn trì hoãn, ông thường nói một cách châm biếm rằng, "tôi sẽ làm việc đó vào cuối tuần.
Vai trò của Gates tại Microsoft trong phần lớn lịch sử của tập đoàn chủ yếu là người quản lý và điều hành. Tuy nhiên, ông cũng tham gia vào phát triển phần mềm trong những ngày đầu của công ty, đặc biệt về các sản phẩm ngôn ngữ lập trình. Ông không còn đảm nhiệm trưởng nhóm phát triển phần mềm kể từ sản phẩm TRS-80 Model 100 (1983), nhưng vẫn còn viết mã chương trình cho các sản phẩm của công ty cho đến 1989, Ngày 15 tháng 6, 2006, Gates tuyên bố ông rời vị trí quản lý thường nhật của tập đoàn trong hai năm tiếp theo để giành thêm thời gian cho công tác từ thiện. Ông quyết định chia trọng trách đảm nhiệm của mình, đề bạt Ray Ozzie là người quản lý hàng ngày và Craig Mundie giữ vai trò quản lý chiến lược sản phầm dài hạn.
Vụ kiện chống độc quyền
Nhiều quyết định của Bill Gates trong hoạt động kinh doanh của Microsoft đã dẫn đến vụ kiện chống độc quyền nhằm vào tập đoàn. Trong vụ kiện Hoa Kỳ chống lại Microsoft năm 1998, một số nhà báo đưa tin rằng trong lúc lấy lời khai, Gates trả lời nhiều câu hỏi một cách lảng tránh. Ông cãi với luật sư David Boies với nội dung tương đương một số từ như, "cạnh tranh", "quan tâm", và "chúng tôi".[48] Báo BusinessWeek đăng nội dung:
Ở những vòng lấy lời khai ban đầu, ông thường trả lời lúng túng và nói 'tôi không nhớ' rất nhiều lần khiến vị thẩm phán chủ tọa cũng phải cười. Tệ hơn nữa, nhiều lời phủ nhận và biện hộ không thể chối cãi của vị lãnh đạo công nghệ đã bị bên nguyên bác bỏ với những đoạn câu trong e-mail mà Gates đã gửi và nhận được.[49]
Gates sau đó nói rằng ông chỉ đơn giản chống lại những cố gắng của luật sư Boies nhằm hiểu sai những từ và hành động của ông. Nói về những cử chỉ trong lúc trả lời hỏi cung, ông kể, "Tôi có rào đón Boies không? ... Tôi đã nhận tội. Cho dùng hình phạt nên áp dụng vào tôi thì sự khiếm nhã của Boies phải được nhắc đến trước tiên” Mặc dù Gates phủ nhận, quan tòa đã phán quyết rằng Microsoft đã độc quyền và bán kèm đối với những sản phẩm của mình làm cản trở sự cạnh tranh trong thị trường, cả hai điều này đều vi phạm đạo luật chống độc quyền Sherman.
Xuất hiện trong quảng cáo
Bill Gates đã xuất hiện trong một số chương trình quảng bá cho Microsoft vào năm 2008. Phim quảng cáo thương mại đầu tiên, ông diễn cùng với Jerry Seinfeld, là một đoạn đối thoại ngắn dài 90 giữa một người lạ do Seinfeld thủ vai đi đến tiệm bán giầy giảm giá trong trung tâm mua sắm và gặp Gates đang mua giầy ở bên trong. Người bán hàng đang cố bán cho Bill Gates loại giầy quá cỡ. Khi Gates đang chọn mua, trên tay ông cầm một thẻ mua hàng giảm giá có ảnh hơi khác ảnh chụp của ông khi bị cảnh sát bắt tạm giữ vì Bill Gates đã vi phạm luật giao thông ở New Mexico năm 1977.[51]Khi hai khách hàng đi ra khỏi trung tâm, Seinfeld hỏi Gates có định hướng cho những nhà phát triển khác không, sau khi Bill trả lời là có thì ông ta hỏi tiếp là có phải họ đang làm cho máy tính trở lên dễ sử dụng hơn không, Gates tiếp tục trả lời là có. Một số người nói rằng đây là sự kính trọng dành cho chương trình hài kịch tình huống của Seinfeld về "không cái gì cả" (Seinfeld). Trong đoạn phim quảng cáo thứ hai, Gates và Seinfeld đến ở nhà của một gia đình trung lưu và cố gắng thích nghi với lối sống của họ.
Hậu Microsoft
Từ khi rời vị trí quản lý thường nhật tại Microsoft (ông vẫn là chủ tịch), Gates giành thời gian cho các hoạt động từ thiện, cùng các dự án khác như mua lại bản quyền ghi hình các bài giảng của Richard Feynman với nội dung Tính chất các định luật vật lý tại Đại học Cornell năm 1964 do hãng BBC ghi lại. Có thể xem miễn phí các video tại dự án Tuva của Microsoft.
Tháng 4 năm 2010, Gates được mời nói chuyện tại Học viện công nghệ Massachusetts với sinh viên về những vấn đề khó khăn mà thế giới trong tương lai phải đối mặt.
Cuộc sống cá nhân
Gates cưới Melinda French ngày 1 tháng 1 năm 1994. Họ có 3 con: con gái Jennifer Katharine (1996) và Phoebe Adele (2002) và một con trai Rory John (1999).
Gia đình họ sống trong khu biệt thự nhìn ra hồ Washington ở Medina, bang Washington. Theo thống kê công khai của quận King, cho đến 2006 giá trị của khu biệt thự vào khoảng 125 triệu $, và thuế bất động sản hàng năm là $991.000.
Khu bất động sản rộng 66.000 sq ft (6.100 m2) có một bể bơi dài 60 foot (18 m) trang bị hệ thống âm nhạc dưới nước, một phòng tập thể thao 2.500 sq ft (230 m2) và có một phòng ăn rộng 1.000 sq ft (93 m2).
Một trong những bộ sưu tập của Gates là bản thảo Codex Leicester, bao gồm những trang giấy viết tay của Leonardo da Vinci mà Gates đã mua trong cuộc đấu giá với số tiền 30,8 triệu $ năm 1994. Ông cũng là một người ham đọc sách, và trên trần của gian thư viện trong khu biệt thự có khắc một câu nói trong tiểu thuyết The Great Gatsby.[61] Ông cũng thích chơi bài bridge, tennis, và golf.
Gates được xếp vào danh sách tỷ phú Forbes 400 từ 1993 đến 2007 và là người giàu nhất thế giới theo danh sách tỷ phú của Forbestừ 1995 tới 2007 và 2009. Năm 1999, tài sản của ông vượt qua 101 tỷ $ trong một thời gian ngắn và các phương tiện truyền thông đã gọi Bill Gates "người giàu trăm tỷ đô". Mặc dù là người giàu có và thường xuyên phải di chuyển khắp nơi trên thế giới nhưng Gates vẫn đặt vé máy bay hạng phổ thông cho đến tận 1997 khi ông đặt mua một chiếc máy bay riêng. Từ 2000, giá trị cổ phần mà ông nắm giữ tại Microsoft bị tụt giảm do sự giảm giá cổ phiếu của Microsoft sau bong bóng Dot-com và do ông đã giành nhiều tỷ đô la cho quỹ từ thiện của mình. Trong một cuộc phỏng vấn tháng 5 năm 2006, Bill Gates đã nói rằng ông ước gì không trở thành người giàu nhất trên thế giới bởi vì ông không muốn quá nhiều sự chú ý mà danh hiệu này đem lại. Ông cũng đầu tư kinh doanh tại các công ty khác ngoài Microsoft, mà trong năm 2006 ông kiếm được số tiền 966.667$ với mức lương 616.667$ và khoản thưởng 350.000$ từ các công ty này. Ông thành lập hãng Corbis, một công ty ảnh kỹ thuật số vào năm 1989. Năm 2004 ông là giám đốc ban quản trị của Berkshire Hathaway, một tập đoàn đầu tư do người bạn lâu năm Warren Buffett thành lập. Tháng 3 năm 2010, Bill Gates được xếp hạng là người giàu thứ hai thế giới sau Carlos Slim.
Công tác từ thiện
Gates bắt đầu đánh giá cao sự mong đợi từ những người khác khi dư luận cho rằng ông có thể dùng tài sản của mình để làm từ thiện. Gates đã học cách làm của Andrew Carnegie vàJohn D. Rockefeller, và vào năm 1994 ông bán một số cổ phiếu của Microsoft nhằm tạo dựng Quỹ William H. Gates. Năm 2000, Gates và vợ đã sáp nhập ba quỹ của gia đình thành một là Quỹ Bill & Melinda Gates, quỹ từ thiện hoạt động công khai lớn nhất thế giới hiện nay. Cách hoạt động của quỹ cho phép các nhà hảo tâm biết được thông tin mà tiền họ quyên góp sẽ được sử dụng như thế nào, không giống như cách hoạt động của những tổ chức từ thiện lớn khác như Wellcome Trust. Sự hào phóng và đóng góp lớn củaDavid Rockefeller cho công việc từ thiện được coi là nhân tố chính tác động đến ông. Gates cùng cha mình đã gặp Rockefeller vài lần, và họ thực hiện công tác từ thiện theo những mục tiêu giống với mục tiêu hoạt động của quỹ từ thiện nhà Rockefeller, như những vấn đề toàn cầu bị chính phủ các nước và các tổ chức bỏ qua hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Cho đến 2007, Bill và Melinda Gates là quỹ từ thiện lớn thứ hai ở Hoa Kỳ, với ngân sách tới 28 tỷ $. Họ có kế hoạch dành tới 95% tài sản cho từ thiện.
Quỹ đầu tư vào các công ty có mục đích làm giảm tỷ lệ đói nghèo ở các nước kém phát triển, vào các công ty sản xuất gây ô nhiễm nặng, công ty dược mà nhiều loại thuốc không được bán ở các nước đang phát triển. Mục tiêu của Quỹ là thúc đẩy những ý tưởng sáng tạo, phát triển các công nghệ năng lượng sạch, nâng cao khả năng chăm sóc sức khỏe của xã hội cũng như đầu tư vào giáo dục.
Melinda Gates cho rằng nhiều người nên học lòng từ thiện của gia đình Salwen. Gia đình này đã bán nhà của họ và dành một nửa số tiền thu được cho quyên góp từ thiện, như được miêu tả trong The Power of Half. Gates và vợ đã mời Joan Salwen đến Seattle để kể về những hoạt động mà gia đình họ đã làm. Vào ngày 9 tháng 12 năm 2010, Gates, Warren Buffett, và Mark Zuckerberg đã ký vào bản ghi nhớ "Cam kết cho đi của Gates-Buffet", mà họ hứa sẽ giành ít nhất một nửa tài sản làm từ thiện trong tương lai.
Công nhận
Năm 1987, Gates lần đầu tiên trở thành tỷ phú khi có tên trong danh sách Những người giàu nhất Forbes 400 xuất bản ở Hoa Kỳ, chỉ một ngày trước lần sinh nhật thứ 32 của ông. Là một tỷ phú tự thân lập nghiệp trẻ nhất thế giới với tài sản khi đó là 1,25 tỷ $, tăng hơn 900 triệu $ so với tài sản ông có ở năm trước.
Tạp chí Time nêu tên Gates là một trong những người ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20, cũng như một trong 100 người ảnh hưởng nhất trong các năm 2004, 2005, và 2006. Time cũng vinh danh đồng thời Gates, Melinda và trưởng nhóm ban nhạc U2 Bono là Nhân vật của năm 2005 cho những nỗ lực mang tính nhân văn của họ. Năm 2006, ông đứng thứ 8 trong danh sách "Anh hùng của thời đại". Năm 1999 báo The Sunday Times nêu tên ông trong "Danh sách những người quyền lực nhất", và Tạp chí Giám đốc điều hành công nhận ông là CEO của năm 1994. Ông xếp thứ nhất trong "Top 50 Nhân vật Công nghệ" của Time năm 1998, xếp thứ hai trong "Danh sách 100 người nổi tiếng" của tờ Upside năm 1999 và là một trong "Top 100 người ảnh hưởng trong truyền thông" của The Guardian năm 2001.
Năm 1994, ông được vinh danh là Hội viên xuất sắc thứ 20 của Hiệp hội Máy tính Anh quốc. Bill Gates đã nhận nhiều bằng tiến sỹ danh dự từ Đại học kinh doanh Nyenrode, Breukelen, Hà Lan năm 2000; Viện công nghệ hoàng gia, Stockholm, Thụy Điển năm 2002; Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản năm 2005; Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, Trung Quốc năm 2007; Đại học Harvard năm 2007; Viện Karolinska, Stockholm, năm 2008, và Đại học Cambridge năm 2009. Ông cũng là thành viên danh dự của Đại học Bắc Kinh năm 2007. Gates cũng là Hiệp sĩ danh dự của Đế chế Anh (KBE) do Nữ hoàng Elizabeth II trao năm 2005, và các nhà côn trùng học đặt tên Bill Gates cho một côn trùng họ Ruồi giả ong là Eristalis gatesi.
Tháng 11 năm 2006, ông và vợ nhận Tước hiệu Đại bàng Aztec cho hoạt động từ thiện của họ trên thế giới trong các lĩnh vực sức khỏe và giáo dục, đặc biệt ở Mexico với chương trình "Un país de lectores". Tháng 10 năm 2009, Gates nhận Giải thưởng Bower 2010 trong lĩnh vực Người lãnh đạo kinh doanh của Viện Franklin vì những thành tựu trong kinh doanh và công tác từ thiện. Năm 2010 ông nhận Giải bạc Buffalo của Hội Nam Hướng đạo Mỹ, giải thưởng cao nhất giành cho người lớn vì những hoạt động giành cho tuổi trẻ.
Năm 2011, Bill Gates là một trong năm người quyền lực nhất trên thế giới theo tạp chí Forbes.
Đầu tư
Cascade Investments LLC, công ty bất động sản và đầu tư tư nhân ở Hoa Kỳ, do Bill Gates quản lý, có trụ sở Kirkland, Washington.
bgC3, một công ty nghiên cứu các công nghệ mới do Bill Gates sáng lập.
Corbis, công ty dịch vụ ảnh bản quyền kĩ thuật số.
TerraPower, công ty thiết kế lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới.
Sách và phim
Cho tới nay, Bill Gates đã viết hai cuốn sách. Con đường phía trước, viết cùng giám đốc điều hành Nathan Myhrvold và nhà báo Peter Rinearson, xuất bản tháng 11 năm 1995, cuốn sách tổng kết vai trò và ý nghĩa của cuộc cách mạng máy tính cá nhân và miêu tả tương lai sẽ thay đổi như thế nào khi có một mạng lưới truyền thông tin tốc độ siêu cao. Kinh doanh @ tốc độ của Tư duy xuất bản năm 1999, thảo luận về kinh doanh và công nghệ được kết hợp với nhau như thế nào, và tác giả chỉ ra mạng lưới thông tin và cơ sở hạ tầng kĩ thuật số sẽ là một yếu tố cạnh tranh trong thời đại số.
Gates đã xuất hiện nhiều trong phim tài liệu như phim Waiting for "Superman" năm 2010, và loạt phim tài liệu của BBC The Virtual Revolution.
Bill Gates là nhân vật chính trong phim Pirates of Silicon Valley năm 1999, bộ phim kể về lịch sử hình thành và quá trình phát triển củaApple và Microsoft từ đầu thập niên 1970 tới 1997. Diễn viên Anthony Michael Hall thủ vai ông.
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHIẾN LƯỢC GIA
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DIỄN VIÊN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- DONALD TRUMP
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KINH TẾ GIA
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI PHÁT MINH
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆ
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ CỐ VẤN
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ GIÁO
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÀNH LỘC
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
BÀI VIẾT
-
▼
2024
(43)
-
▼
tháng 11
(8)
- Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 20...
- Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng ...
- Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia n...
- Nguyên Hồng - Nhà văn người Việt Nam
- Duy Quang - ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam
- Thành Lộc - Diễn viên Việt Nam
- Fritz Hofmann - Nhà hóa học Người Đức
- Tim Cook - Doanh nhân người Mỹ - Hiện là Tổng Giám...
-
▼
tháng 11
(8)
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia