23 tháng 4 2013
Harriet Elizabeth Beecher Stowe (14 tháng 6 năm 1811 – 1 tháng 7 năm 1896) là một nhà văn người Mỹ gốc Âu tích cực ủng hộ chủ nghĩa bãi nô. Tác phẩm Uncle Tom's Cabin (Túp lều của Bác Tom, 1852) của bà công kích sự tàn bạo của chế độ nô lệ; tác phẩm này đến với hàng triệu người trong dạng tiểu thuyết và kịch nghệ, gây ảnh hưởng lớn ở Vương quốc Anh, làm sáng tỏ các yếu tố chính trị trong thập niên 1850 về vấn đề nô lệ đối với hàng triệu người, cũng như củng cố phong trào bãi nô ở miền Bắc, nhưng lại khiến miền Nam phẫn nộ. Tổng tống Abraham Lincoln tóm tắt ảnh hưởng của tác phẩm này khi tiếp kiến Stowe, đã nói, "Vậy ra bà chính là người phụ nữ nhỏ bé đã viết cuốn sách gây ra cuộc chiến vĩ đại này!”.
Tiểu sử
Chào đời với tên Harriet Beecher ở Litchfield, Connecticut, bà là con gái của Lyman Beecher, nhà thuyết giảng thuộc giáo phái Tự trị Giáo đoàn theo chủ nghĩa bãi nô sinh trưởng ở Boston, và Roxana Foote Beecher (Roxana qua đời khi Harriet mới lên bốn), và là em của vị mục sư danh tiếng Henry Ward Beecher. Ngoài ra, bà có hai người em là những nhà hoạt động xã hội nổi tiếng: Charles Beecher và Isabella Beecher Hooker.
Năm 1832, gia đình bà dời về Cincinnati, nơi có nhiều hoạt động bãi nô. Ở đấy người cha trở thành viện trưởng đầu tiên của Chủng viện Thần học Lane. Ở đấy, bà được nghe những câu chuyện kể về chế độ nô lệ và Tuyến Hỏa xa ngầm (Underground Railroad) - những hoạt động bí mật giải thoát nô lệ đưa lên miền Bắc - và chịu cảm động để sáng tác tiểu thuyết Túp lều của Bác Tom, tác phẩm lớn đầu tiên xuất bản ở Mỹ có nhân vật chính là một người Mỹ gốc Phi. Harriet chưa bao giờ đến thăm các đồn điền, nhưng có nhiều tiếp xúc với những người từng là nô lệ.
Năm 1836, Harriet Beecher kết hôn với Calvin Ellis Stowe, một mục sư đã góa vợ. Hai người dời về sống ở Brunswick, Maine, khi ông nhậm chức giáo sư tại trường Đại học Bowdoin. Harriet và Calvin có bảy người con, nhưng trong đó bốn người qua đời trước bà. Hai con đầu tiên, Hattie và Eliza, sinh đôi ngày 29 tháng 9 năm 1836. Bốn năm sau, vào năm 1840, con trai Frederick William chào đời. Năm1848, Samuel Charles sinh ra, nhưng năm sau cậu bé bị chết vì dịch tả. Trong nỗi đau đớn vì mất con trai Samuel, bà thấy mình có đồng tâm trạng với những bà mẹ nô lệ mất con khi chứng kiến con cái mình bị bắt đem đi bán. Đây là lý do chính thúc giục bà viết Túp lều của Bác Tom; trong đó có đoạn viết về người phụ nữ nô lệ Eliza Harris bỏ trốn sau khi con trai của bà bị tách rời khỏi mẹ để đem đi bán.
Theo nhận xét của Elizabeth Ammons, “Nếu Beecher là nam giới, có lẽ bà đã tiếp bước cha để trở thành mục sư. Nhưng bà là vợ mục sư và là chị của các mục sư. Bà nhìn nhận rằng chính nhiệt tâm Cơ Đốc đã thúc giục bà viết quyển Túp lều của Bác Tom. Gia đình Stowe không giàu có, nên cuộc sống của Harriet là một sự tranh chấp giữa công việc bộn bề của một người mẹ với nghiệp văn chương. Có bảy đứa con, bà vừa chăm sóc con vừa viết văn”
Stowe cố sức trang trải các khoản chi tiêu trong gia đình bằng cách viết cho các tờ báo định kỳ ở địa phương. Suốt trong cuộc đời, bà làm thơ, viết sách du lịch, sơ thảo sách tiểu sử, viết sách cho trẻ em, cũng như sáng tác tiểu thuyết. Bà đã gặp gỡ và trao đổi thư tín với các nhân vật tiếng tăm trên văn đàn như Lady Byron, Oliver Wendell Holmes, và George Eliot.
Dù đã viết ít nhất là mười quyển tiểu thuyết, Harriet Beecher Stowe được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Túp lều của Bác Tom (năm 1852). Khởi đầu chỉ là một truyện dài được đăng từng kỳ trên một tuần báo chủ trương bãi nô ở Washington, tờ National Era, tác phẩm này đã thu hút sự chú ý của công luận và bị cuốn vào các cuộc tranh cãi. Stowe viết quyển “Túp lều của bác Tom” dựa trên kinh nghiệm bản thân: bà quen thuộc với chủ đề nô lệ, với phong trào bãi nô, và tuyến hỏa xa ngầm bởi vì Kentucky, nơi Stowe từng sinh sống, là một tiểu bang ủng hộ chế độ nô lệ. Sau khi quyển sách được ấn hành, bà trở thành nhân vật nổi tiếng, đi khắp nước Mỹ và Âu châu để diễn thuyết về chủ đề nô lệ.
"Hầu hết các bà mẹ đều là những nhà hiền triết bẩm sinh."
Harriet Beecher Stowe, The Minister's Wooing (1859)
Một mặt, văn phong trong “Túp lều của bác Tom” thể hiện tình cảm Cơ Đốc lãng mạn, rất được yêu thích vào lúc ấy, nhưng khó tìm được sự đồng cảm của độc giả đương đại. Mặt khác, Stowe là một trong số các nhà văn hiện thực tiên phong. Bối cảnh các câu chuyện của bà thường được miêu tả chính xác đến từng chi tiết. Bà khắc họa chân dung đời sống xã hội đương thời với nhiều chi tiết xác thực, thể hiện sự nhận thức sâu sắc về tính phức tạp của nền văn hóa bà đang sống, cũng như khả năng chuyển tải những đặc điểm văn hóa ấy đến người đọc.
Túp lều của Bác Tom
Năm 1850, việc thông qua Đạo luật Nô lệ Bỏ trốn (Fugitive Slave Law) đã thúc đẩy Stowe tham gia tích cực phong trào bãi nô. Người em dâu của Stowe gởi cho bà một lá thư, trong đó có đoạn viết, "Harriet, nếu có được văn tài như chị, tôi sẽ viết một điều gì đó khiến cả dân tộc này phải thấy rõ chế độ nô lệ là đáng nguyền rủa biết bao." Sau khi lớn tiếng đọc bức thư trước những đứa con của bà, Harriet đột ngột vò nát miếng giấy trong tay và nói "Tôi sẽ viết cái gì đó bao lâu tôi còn sống”. Có người cho rằng, khi đang ngồi trong nhà thờ, Harriet cảm nhận được hình ảnh "cái chết của Bác Tom" và bị xúc động đến rơi lệ. Ngay lập tức, bà về nhà và bắt tay viết cuốn sách.
Stowe khởi sự nghiên cứu về chế độ nô lệ. Bà tìm cách tiếp xúc và nói chuyện với các nô lệ đã đào thoát, cũng như với các chủ nô về mọi khía cạnh của vấn đề nô lệ, bà cũng đọc vài cuốn sách về chủ đề này. Năm 1851, với sự giúp đỡ của William Lloyd Garrison, chủ biên tờ nhật báo có chủ trương bãi nô The Liberator (Báo Giải phóng), Stowe bắt đầu xuất bản các truyện ngắn hư cấu. Chúng được ra từng số trong năm 1851 trên tờ báo bãi nô The National Era (báo Thời kỳ Quốc gia) ở Cincinnati dưới tên "Uncle Tom's Cabin" hay "Life Among the Lowly" (Cuộc sống giữa những người thấp hèn). Nhân vật chính được cho là phỏng theo Josiah Henson, người đã xuất bản quyển tự truyện về cuộc sống nô lệ. Theo yêu cầu của độc giả và của chồng – ông tin rằng truyện của bà có sức mạnh thay đổi chính kiến của nhiều người – bà cho xuất bản các truyện ngắn thành hai tuyển tập trong năm 1852. Trong vòng một tuần lễ sau khi được phát hành ở Mỹ, sách của bà bán được 10.000 bản – một hiện tượng vào thời đó – con số này lên đến 300.000 bản trong năm đầu tiên. Tại Anh, số ấn bản được bán ra còn cao hơn. Đến năm 1854, sách của bà được dịch ra 60 ngôn ngữ.
Tác phẩm của Stowe tạo được ảnh hưởng đáng kinh ngạc tại miền Bắc Hoa Kỳ. Có thêm hàng ngàn người ủng hộ phong trào bãi nô. Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giữa miền Bắc và miền Nam càng bị khoét sâu hơn. Miền Nam cho rằng tác phẩm này không miêu tả chính xác cuộc sống miền Nam, xem nó là sự cáo buộc dành cho các định chế xã hội tại đây, và ban hành những biện pháp khắt khe như cấm phổ biến và bắt giữ bất cứ ai sở hữu tác phẩm này. Đồng thời, miền Nam cho xuất bản những cuốn sách châm biếm nhằm ca ngợi các lợi ích của chế độ nô lệ, bao gồm quyển "Aunt Phillis's Cabin; or Southern Life as it is" (Túp lều của Dì Phillis; hoặc Sự thật về Cuộc sống ở miền Nam). Stowe tập hợp thêm thông tin và trả lời bằng tác phẩm "A Key to Uncle Tom's Cabin" (Chú giải Túp lều của Bác Tom). Bà viết sách này để chứng tỏ rằng bà đã nghiên cứu kỹ lưỡng về vấn đề nô lệ. Tuy nhiên, dù được viết cho miền Nam, nó không được đọc rộng rãi ở đấy như ở các nơi khác.
Ngược lại, ở bên kia bờ đại dương tại nước Anh, thông điệp của "Bác Tom" được chấp nhận rộng rãi, nhờ sự ủng hộ từ lúc ban đầu của một nhân vật có nhiều ảnh hưởng tại Luân Đôn, James Sherman, một mục sư thuộc giáo phái Tự trị Giáo đoàn và là người ủng hộ phong trào bãi nô. Năm 1853, Stowe đi vòng quanh châu Âu để diễn thuyết về tác phẩm của bà. Khi tới Anh, bà được đón tiếp nồng hậu và được nghe một bức thư gọi là Kiến nghị về Lòng Nhân ái và Cơ Đốc giáo (Affectionate and Christian Address), của Hội Chống Nô lệ với hơn nửa triệu chữ ký ủng hộ của các thành phần trong xã hội, từ những nữ quý tộc cho đến các nông dân. Nội dụng bản kiến nghị và các chữ ký được chứa đựng trong 26 quyển sách là tặng phẩm gởi đến Harriet; thư trả lời của bà được in trong tạp chíThe Atlantic Monthly. Chủ tịch Hội Chống Nô lệ, Nữ công tước Sutherland, cũng trở thành bạn thân với Stowe.
"Càng hiến mình cho chân lý thì càng phải thận trọng, luôn tự xét mình, và hết sức nhẫn nại. Tôi không bao giờ đả kích niềm tin của người khác khi không thể cống hiến cho họ một xác tín tốt hơn, bởi vì có một niềm tin vẫn tốt hơn là không có gì”
Harriet Beecher Stowe, Thư gởi William Lloyd Garrison
Vào đầu cuộc Nội chiến Hoa Kỳ năm 1861, việc Vương quốc Anh xem xét lập trường hậu thuẫn miền Nam khiến Stowe nỗ lực nhắc nhở người dân Anh về lời hứa của họ ủng hộ các nộ lệ. Nhờ đó nước Anh giữ thái độ trung lập suốt chiến tranh. Trong nhật ký, Stowe ghi lại những suy nghĩ của bà về cuộc Nội chiến. Bà viết: "Ấy là do ý chỉ của Thiên Chúa mà quốc gia này – cả miền Bắc và miền Nam – phải gánh chịu nhiều đau đớn và khổ nạn vì tội đồng tình và khuyến khích tình trạng áp bức hà khắc tại miền Nam... máu của những người nô lệ đáng thương đã đổ ra trên đất kêu gào vô vọng suốt nhiều năm qua, nay cần được đáp lời bởi máu của những người con của tất cả tiểu bang tự do, là những người chấp nhận rời bỏ ngôi nhà ấm êm để tham gia cuộc chiến”. Năm 1862, Stowe đến gặp Lincoln và yêu cầu tổng thống nỗ lực nhiều hơn để thúc đẩy công cuộc giải phóng nô lệ. Con gái của bà, Hatty, có mặt trong buổi hội kiến giữa Stowe và Lincoln, thuật lại rằng câu nói đầu tiên Lincoln thốt ra là "Vậy ra bà là người phụ nữ nhỏ bé đã viết nên tác phẩm gây ra cuộc chiến vĩ đại này”
Cuối đời
Về sau, Harriet Beecher Stowe viết trong nhật ký: "Tôi đã viết như thế bởi vì trong tư cách một phụ nữ và một bà mẹ, tôi phẫn nộ và đau đớn khi chứng kiến những đau khổ và bất công, là một Kitô hữu tôi nhận biết Kitô giáo đang bị xúc phạm, là một người yêu nước tôi khiếp đảm vì cớ những ngày [đất nước này bị đặt dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa] đang đến gần”
Nhiều sử gia tin rằng Túp lều của Bác Tom là nhân tố quan trọng dẫn đến cuộc nội chiến, là cuộc chiến đã giúp xóa bỏ chế độ nô lệ ở nước Mỹ. Sau khi Đạo luật Nô lệ Bỏ trốn được thông qua, Harriet Beecher Stowe tích cực giúp đỡ các nô lệ bỏ trốn. Sau khi kết thúc cuộc nội chiến, bà thành lập vài trường học và trường nội trú cho những nô lệ mới được tự do. Ảnh hưởng của Harriet Beecher Stowe tác động tới mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội, từ các viên chức chính phủ, giới quý tộc đến người bình dân. Trong suốt cuộc đời mình, bà viết rất nhiều, và ảnh hưởng của bà vượt xa hơn câu chữ. Một cuốn sách của bà mang tên How to Live on Christ (Sống theo Chúa Kitô) có ảnh hưởng sâu đậm trên nhà truyền giáo Hudson Taylor ở Trung Quốc đến nỗi ông đã gửi ấn bản tác phẩm này cho từng thành viên phục vụ trong Hội Truyền giáo Nội địa Trung Quốc (China Inland Mission) vào năm 1869.
Sau đó, Harriet dời về Hartford, Connecticut, sống trong khu dân cư có tên là Nook Farm (Trại Góc). Bà lưu trú tại đây trong 23 năm cuối đời. Harriet Beecher Stowe từ trần ngày 1 tháng 7 năm 1896 và, giống Rosa Parks của thế kỷ 20, tang lễ của bà được cử hành trọng thể. Bà được an táng tại Học viện Phillips ở Andover, Massachusetts.
Ngôi nhà Harriet Beecher Stowe tại Connecticut, nơi bà sinh sống trong 23 năm cuối đời là một ngôi nhà kiểu thôn dã rộng 5.000 bộ vuông chứa đựng nhiều vật dụng của Harriet trong các thời kỳ khác nhau. Trong thư viện được mở cửa cho công chúng có nhiều thư từ và tài liệu được cung cấp bởi Gia tộc Beecher.
Còn Ngôi nhà Harriet Stowe tại Ohio là nhà của Lyman Beecher, thân phụ của Harriet, nằm trong khuôn viên của khu vực trước đây là khu học xá của Chủng viện Lane. Harriet đã sống ở đây cho đến khi kết hôn. Ngôi nhà này được mở cửa cho công chúng như là một địa điểm văn hóa và lịch sử, tập chú vào Harriet Beecher Stowe, Chủng viện Thần học Lane, và Tuyến Hỏa xa Ngầm. Đây cũng là nơi trình bày lịch sử Người Mỹ gốc Phi. Ngôi nhà Harriet Beecher Stowe tại Cincinnati tọa lạc tại 2950 Gilbert Avenue, Cincinnati, OH 45206.
Một số tác phẩm
· The Mayflower; or, Sketches of Scenes and Characters Among the Descendants of the Pilgrims (1834)
· Uncle Tom's Cabin (1852)
· A Key to Uncle Tom's Cabin (1853)
· Dred, A Tale of the Great Dismal Swamp (1856)
· The Minister's Wooing (1859)
· The Pearl of Orr's Island (1862)
· Dưới bút danh "Christopher Crowfield"
· House and Home Papers (1865)
· Little Foxes (1866)
· The Chimney Corner (1868)
· Men of Our Times (1868)
· Old Town Folks (1869)
· Little Pussy Willow (1870)
· Lady Byron Vindicated (1870)
· My Wife and I (1871)
· Pink and White Tyranny (1871)
· Palmetto-Leaves (1873)
· We and Our Neighbors (1875)
· Poganuc People (1878)
RABINDRANATH TAGORE - Nhà thơ Bengal, triết gia Bà La Môn, nhà dân tộc chủ nghĩa được trao giải Nobel Văn học 1913
Rabindranath Tagore, hay Rabindranath Thakur, (6 tháng 5 năm 1861 – 7 tháng 8 năm 1941) là một nhà thơ Bengal, triết gia Bà La Môn và nhà dân tộc chủ nghĩa được trao Giải Nobel Văn học năm 1913, trở thành người châu Á đầu tiên đoạt giải Nobel.
Tagore sinh tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ trong một gia đình trí thức truyền thống ở nhiều lĩnh vực. Bấy giờ, Calcutta là trung tâm giới trí thức của Ấn Độ. Có rất nhiều nhà văn, học giả, kịch tác gia... thường xuyên đến nhà Tagore để đàm luận vấn đề, tổ chức hòa nhạc, diễn kịch... Cha ông là Devendranath Tagore, một nhà triết học và hoạt động xã hội nổi tiếng, từ lâu ông muốn con mình trở thành luật sư nhưng Tagore không thích. Dù sao thì Tagore được hun đúc trong một môi trường văn hóa rất ưu việt. Khi đi học, cậu được học tất cả trên mọi lĩnh vực nhưng cậu thích nhất thơ ca, tiểu thuyết và kịch.
Mặc dù thơ chiếm ưu thế trong sự nghiệp của Tagore với hơn 1.000 bài (50 tập thơ) - bắt đầu từ việc năm 14 tuổi ông được đăng bài thơ "Tặng hội đền tín đồ Ấn Độ giáo", ông cũng để lại nhiều tiểu thuyết (12 bộ dài và vừa), luận văn, hàng trăm truyện ngắn, kí, kịch (42 vở), 2000 tranh vẽ,... Không kém phần nổi tiếng trong số các tác phẩm của ông là hơn 2.000 bài hát, ngày nay được gọi là Rabindra Sangeet và được xem là kho tàng văn hoá Bengal, ở cả Tây Bengal thuộc Ấn Độ lẫn Bangladesh, liên quan sâu sắc tới mọi lĩnh vực.
Văn xuôi của Tagore đề cập đến các vấn đề xã hội, chính trị, giáo dục và nhãn quan của ông về tình huynh đệ phổ quát của con người. Thi ca của ông, xuất phát từ một tinh thần sâu sắc và sự hiến dâng, thường có nội dung ca ngợi thiên nhiên và cuộc sống. Đối với ông, sự phong phú muôn màu vẻ của cuộc sống là nguồn vui bất tận không mang yếu tố trần tục. Chủ đề tình yêu là mô-típ bàng bạc trong khắp các tác phẩm văn chương của ông.
Các bài hát của ông được chọn làm quốc ca của cả Ấn Độ và Bangladesh. Năm 1913, ông đoạt giải Nobel về văn chương cho bản dịch tiếng Anh của tác phẩm Gitanjali (Thơ dâng) của ông. Những tập thơ tiêu biểu của ông là Thơ dâng, Balaca, Người làm vườn,Mùa hái quả, Ngày sinh, Thơ ngắn...
Tagore cũng viết một số tác phẩm để phục vụ cho phong trào giải phóng Ấn Độ. Ông từ chối tước Hiệp sĩ (knight) của Hoàng gia Anh để phản đối cuộc thảm sát Jaliyaanwala Bagh (Amritsar) năm 1919 mà lính Anh đã nã súng vào nhóm thường dân tụ tập không vũ trang, giết hơn 500 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.
Quan điểm về giáo dục dẫn đưa ông thành lập trường của mình, gọi làBrahmacharyashram (brahmacaryāśrama, trung tâm giữ giới Phạm hạnh, brahmacarya), tại Santiniketan ở Tây Bengal năm 1901, nơi cha ông để lại mảnh đất cho ông làm tài sản. Sau năm 1921, trường này trở thành Đại học Vishwa-Bharti và đặt dưới quyền quản lí của chính phủ Ấn Độ từ năm 1951.
Tagore rất nhạy cảm với các sự kiện thế giới xảy ra trong thời đại của mình và biểu hiện niềm đau cũng như nỗi thất vọng đối với chiến tranh. Ông luôn khao khát nền hoà bình cho thế giới.
Các chuyến đi vòng quanh thế giới (Tagore từng tới Việt Nam) của Tagore đã mài dũa sự am hiểu các đặc trưng đa dạng của ông về các nền văn minh và dân tộc. Ông được xem là thí dụ điển hình cho sự kết hợp tinh tế của phương Đông và phương Tây trong văn chương.
Ngày nay Tagore vẫn là nguồn cảm hứng cho hơn 200 triệu người Bengal sống ở Tây Bengal của Ấn Độ và Bangladesh cũng như nhiều người trên khắp thế giới.
Tagore gọi Gandhi là "Mahatma" - linh hồn vĩ đại, và Gandhi (cũng như mọi người Ấn Độ) gọi Tagore là "Gurudev" - thánh sư.
Thơ ông đến với độc giả người Việt qua các bản dịch của Đỗ Khánh Hoan, Đào Xuân Quý và một số dịch giả khác.
LAWRENCE HENRY SUMMERS - Học giả kinh tế, nhà chính trị Hoa Kỳ
Lawrence Henry Summers (sinh ngày 30/11/1954) là một học giả kinh tế, nhà chính trị của Hoa Kỳ. Ông là Thư ký Hội đồng Kinh tế Quốc gia trong chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ thứ 44 Barack Obama. Ông từng nhận giải John Bates Clark vì những đóng góp của ông cho lý luận kinh tế học, từng là nhà kinh tế trưởng của Nhóm Ngân hàng Thế giới, là hiệu trưởng Đại học Harvard và hiện vẫn là giáo sư kinh tế của Đại học Harvard. Ông cũng từng là Bộ trưởng Tài chính (Hoa Kỳ) trong nội các của Tổng thống Bill Clinton. Ông là người ủng hộ mạnh mẽ tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa.
Tiểu sử
Lawrence Summers sinh tại New Haven, Connecticut. Cha và mẹ ông đều là giáo sư kinh tế của Đại học Connecticut. Ông có họ hàng với hai nhà kinh tế đoạt giải Nobel là Paul Samuelson và Kenneth Arrow (cha của Lawrence là Robert là anh em ruột của Paul Samuelson nhưng đã đổi họ từ Samuelson thành Summers; còn mẹ là Anita, tên thời con gái là Anita Arrow, là em gái của Kenneth Arrow).
Khi mới 16 tuổi, Lawrence Summers đã trở thành sinh viên ngành vật lý của Đại học Harvard, nhưng ông sớm chuyển sang theo đuổi ngành kinh tế học. Năm 1982, ông nhận học vị tiến sĩ kinh tế tại trường Harvard (giáo sư hướng dẫn là Martin Feldstein). Từ đó ông trở thành giảng viên kinh tế học của cả Đại học Harvard lẫn Học viện công nghệ Massachusetts. Năm 1983, khi mới 28 tuổi, ông là giáo sư trẻ vào loại nhất của Đại học Harvard.
Học giả kinh tế
Với tư cách là học giả kinh tế, Lawrence Summers là người nổi tiếng. Ông đã có những đóng góp quan trọng về mặt học thuật trong các lĩnh vực tài chính công, kinh tế học lao động, tài chính tiền tệ, kinh tế học vĩ mô. Năm 1987, ông là học giả lĩnh vực khoa học xã hội đầu tiên được Quỹ Khoa học Quốc gia (Hoa Kỳ) trao giải Alan T. Waterman. Năm 1993, ông được Hội Kinh tế Hoa Kỳ trao giải John Bates Clark. Hiện ông là viện sĩ Viện Hàm lâm Khoa học Quốc gia (Hoa Kỳ).
Quan chức
Summers từng là thành viên Hội đồng tư vấn kinh tế cho Ronald Reagan từ năm 1982 đến 1983, từng là cố vấn kinh tế cho Dukakis trong chiến dịch tranh cử năm 1988.
Năm 1991, Summers được bổ nhiệm làm nhà nghiên cứu trưởng của Nhóm Ngân hàng Thế giới cho đến năm 1993.
Năm 1995, ông được bổ nhiệm là Thứ trưởng Bộ Tài chính (phó cho Robert Rubin) và từ năm 1999 làm Bộ trưởng thay Rubin.
Năm 2001, ông trở về Đại học Harvard làm hiệu trưởng và ở vị trí đó cho đến năm 2006.
ADAM SMITH - Nhà kinh tế chính trị và triết gia đạo đức người Scotland
Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc gia (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do.
Nhờ lý thuyết về kinh tế học của Adam Smith, Charles Dickens đã đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của xã hội tư bản. Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry James và Henry Adams. Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism) đã đưa tới cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga xảy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của Liên bang Xô viết sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố độc lập và "Bản tuyên ngôn độc Lập" của Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng chính trị của thế giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia và nền triết học về "của cải” của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam Smith đã nhìn thấy một bàn tay vô hình chi phối tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa sức mạnh và cách hoạt động của thị trường.
Cuộc đời của Adam Smith
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời. Vì vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của ông.
Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1.500 người gần thành phố Edinburg, xứ Scotland.
Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Di Gan sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.
Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học hai trường đại học Oxford và Cambridge; trong thời gian từ năm 1751 đến 1764, ông là giáo sư của trường Đại học Glasgow, vào thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng. Giảng dạy tại đại học này có giáo sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học luân lý, là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Latin. Các quan điểm về kinh tế và triết học của Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói rằng "không bao giờ có thể quên được tiến sĩ Hutcheson". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học để quán triệt các tư tưởng triết học cổ điển và đương thời. Họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các quan hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm giảng sư tại Đại học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình công (public lecture), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học tới ngành kinh tế chính trị. Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp chí Gentleman's Magazine đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Scotland".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm giáo sư Lý luận (professor of logic) tại Đại học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành giáo sư môn triết học luân lý, một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên, đạo đức học, luật học và kinh tế chính trị học.
Thời gian đảm nhận chức vụ giáo sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm trưởng khoa. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành hóa học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện hàn lâm Kiểu mẫu Anh quốc (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại học Glasgow, người sáng lập ra Câu lạc bộ Kinh tế chính trị (Political Economy Club). Nhờ đó, Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia.
Vào năm 1767, ông được bầu vào Hàn lâm viện Hoàng gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm "Bàn về tài sản quốc gia" rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.
Adam Smith mất ngày 17 tháng 7 năm 1790 tại Edinburgh, Scotland; cả đời không kết hôn và cũng không có con.
Adam Smith với tư cách là một triết gia đạo đức
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa.
Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi và tự bảo tồn. Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm Các tình cảm luân lý, Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia: "con người tự tìm kiếm mình thường bị dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình ... mà không hay biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến các lợi ích của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.
Tác phẩm Lý thuyết về các tình cảm luân lý(*) đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từ Moskva. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ trưởng Thương mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức Hầu tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.
Adam Smith với tư cách là học giả kinh tế chính trị
Adam Smith không phải là người đầu tiên nghiên cứu lý luận kinh tế, nhiều tư tưởng nổi tiếng cũng không phải do một mình ông tìm ra. Nhưng ông là người đầu tiên hoàn chỉnh, hệ thống hóa lý luận, đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của kinh tế học. Tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia là khởi điểm đầu của nghiên cứu chính trị kinh tế học hiện đại.
Tư tưởng kinh tế của Adam Smith chịu ảnh hưởng lớn của của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng nông. Nhưng ông vượt lên và phê phán họ.
Giữa thế kỷ 18, giới quý tộc địa chủ đã nắm giữ chính quyền, nhưng hai giai cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia đã đòi hỏi và nhận được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan cao, không cho tiền tệ ra khỏi xứ, tiền công lao động phải được duy trì ở mức thấp và giờ lao động phải dài... Tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế này, được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy vàng và bạc. Muốn có hai kim loại quý này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa. Họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác. Họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì có giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất khẩu nhiều sản phẩm chế tạo, nhập khẩu nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu thụ. Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của chủ nghĩa trọng thương là sai lầm và có hại.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại học Glasgow rồi cùng vị Hầu tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài sản của các quốc gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Genève và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là đại sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai sáng Pháp (French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế (chủ nghĩa trọng nông) và Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao, nhất là ông đã tiếp thu tư tưởng về tự do kinh doanh của chủ nghĩa trọng nông.
Sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách này được xuất bản.
Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách Lịch sử của nền văn minh, Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng Tài sản của các quốc gia có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế.
Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà trọng thương. Nhờ đó, trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các quốc gia mậu dịch khác và Adam Smith xứng đáng được gọi là "Người cha của nền kinh tế mới".
Những tác phẩm chính của Adam Smith
1. "Lectures on Rhetoric and Belles Lettres," 1748.
2. "The Theory of Moral Sentiments," 1759. (copies (1), (2), (3)) *
3. "Lectures on Rhetoric and Belles Lettres" (1762-1763; in 1958)
4. "Lectures on Jurisprudence," 1766.
5. "An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations," 1776. (Copy (1), (2), (3), (4), (5), French transl. - Vol. 1, Vol. 2)
6. "Account of the Life and Writings of David Hume", 1777.
7. "Thoughts on the State of the Contest with America", 1778.
8. "Essays on Philosophical Subjects", 1795 - gồm
1. "The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of Astronomy"
2. The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Physics"
3. The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Logic and Metaphysics"
9. "Of the External Senses"
10."Of the Nature of that Imitation which takes place in what are called the Imitative Arts"
11."Of the Affinity between certain English and Italian Verses"
12."Review of Johnson's Dictionary", 1755, Edinburgh Review
13."Letter to the Authors", 1756, Edinburgh Review
14."Preface and Dedication to William Hamilton's Poems on Several Occasions", 1748, 1758
15."Account of the Life and Writings of Adam Smith LL.D." by Dugald Stewart, 1793, Transactions of the Royal Society of Edinburgh
WILLIAM PETTY - Người đặt nền móng cho Kinh tế chính trị cổ điển Anh
William Petty (1623-1687) là người đặt nền móng cho trường phái Kinh tế chính trị cổ điển ở Anh, tác phẩm nghiên cứu của ông được xuất bản trong những năm 60-80 thế kỷ 17. K. Marx đánh giá ông là “cha đẻ của Kinh tế chính trị, nhà kinh tế học kiệt xuất và đặc sắc”. Những tác phẩm của ông được biết đến là “Luận bàn về thuế và các khoản thu” (1662), “Giải phẫu học chính trị Ireland” (1672), “Điều khác về tiền tệ” (1682). Trong các tác phẩm đó tư tưởng xuyên suốt là không công nhận đường lối bảo hộ mậu dịch của chủ nghĩa trọng thương.
William Petty sinh tại thành phố Romsi – miền nam nước Anh, trong một gia đình sản xuất vải dạ. Từ nhỏ đã tỏ ra thông minh. Năm 14 tuổi không muốn tiếp tục công việc truyền thống của gia đình, ông bỏ nhà đi làm thủy thủ thiếu niên. Một năm sau ông bị tai nạn gãy chân, phải rời tàu và lưu lạc ở bờ biển phía bắc nước Pháp. Nhờ giỏi [tiếng Latinh] ông được nhận vào học tại trường trung học chuyên nghiệp thành phố Kanne. Tại đây ông học thêm tiếng Hy lạp, tiếng Pháp, toán và thiên văn.
Trở về Anh năm 1640 sau khi tốt nghiệp trung học, ông kiếm sống bằng công việc vẽ hải đồ, và sau đó là phục vụ trên chiến hạm. Ba năm sau, đúng 20 tuổi, ông lại rời Anh để theo học ngành y ở Amsterdam và Paris. Kết thúc bốn năm du học với chứng chỉ y khoa, ông về lại Anh và lại tiếp tục theo học tại Đại học tổng hợp Oxford.
Năm 1650, lúc 27 tuổi ông được nhận học vị tiến sĩ vật lý, nhưng lại làm giáo sư phẫu thuật học tại một trường trung học chuyên nghiệp ở Anh. Sau một năm, bất ngờ ông nhận lời làm bác sĩ thuộc trung tâm chỉ huy quân sự Anh tại Ireland. Cuộc sống của một bác sĩ nghèo thay đổi từ đó. Ông đã kiếm được 9 nghìn bảng Anh nhờ vào công việc lập bản đồ cho nhà nước tại Ireland. Đó là vì ông đã đứng tên mua các khoảnh đất quân đội cấp cho các sĩ quan và lính, mà họ từ chối. Chỉ trong khoảng 10 năm, một người trí thức đa nghề 38 tuổi đã được trao tặng danh hiệu hiệp sĩ và quyền được gọi là “ngài W. Petty”. Sự giàu có cộng với trí thông minh đã biểu hiện qua công việc sau này của ông, đó là ghi chép đời sống kinh tế của xã hội và quốc gia.
Lý thuyết về sự giàu có và tiền tệ
Khác với những nhà trọng thương, theo W. Petty, sự giàu có không chỉ là vàng bạc và đá quý, mà còn là đất đai, nhà cửa, hàng hóa và thậm chí là hoàn cảnh gia đình. Câu nói bất hủ của ông lưu truyền đến tận ngày nay: “Lao động là cha và nguyên tắc chủ động của sự giàu có, và đất là mẹ của nó”.
Để tăng thu nhập nhà nước W. Petty đề nghị, thay vì tống giam người phạm tội nên dùng biện pháp phạt tiền, đối với kẻ ăn trộm mà không có tiền thì bắt làm nô lệ để lao động. Ông không công nhận vai trò đặc biệt của tiền tệ. Vì vậy ông cũng giải thích rõ thêm, nước nào làm hỏng đồng tiền của mình thì cũng đồng nghĩa với sự suy thoái, giảm uy quyền của nhà vua, phản bội lại lòng tin của dân chúng đối với tiền.
Để phát triển thêm ý tưởng trên ông cho rằng cấm chuyển tiền ra nước ngoài là vô nghĩa và không thể. Theo ông, việc đó cũng tương tự như cấm nhập khẩu hàng hóa. Trong các lập luận ông thể hiện là người ủng hộ lý thuyết tiền tệ về số lượng, hiểu rõ những quy luật về số lượng tiền cần thiết cho giao thương. Đồng thời trong đó cũng thấy rõ quan điểm sơ lược của ông về vai trò tiền tệ trong nền kinh tế. Ông là người kiên quyết phủ nhận sự đóng góp của buôn bán và tư bản thương mại trong tạo dựng của cải, đề nghị giảm bớt số lái buôn. Ông so sánh giới lái buôn như những “người chơi”, là giới làm công việc phân phối “máu” và “chất dinh dưỡng” của quốc gia - một cách ẩn dụ của ông đối với sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp.
Lý thuyết tiền tệ
Bất đồng quan điểm với chủ nghĩa trọng thương không chỉ trên phương diện bản chất sự giàu có và cách thức nhân rộng nó lên, ông còn tìm cách giải thích nguồn gốc giá trị của hàng hóa, và cả nguyên nhân làm ảnh hưởng đến mức giá cả trên thị trường. Những luận bàn xoay quanh vấn đề này cho phép công nhận ông chính là người đầu tiên đã đề ra lý thuyết lao động về giá trị. Một trong những luận điểm đó phát biểu rằng giá trị của bạc được tạo bởi lao động trong việc khai thác bạc, và ông gọi đó là “giá trị tự nhiên”. Giá trị của hàng hóa, tương đương với giá trị của bạc tính theo lao động bỏ ra, được ông gọi là “giá thị trường thật sự” của hàng hóa đó. Tuy nhiên cách tiếp cận về chi phí lao động như trên không thể làm cơ sở để giải thích được nhiều các hiện tượng kinh tế.
Lý thuyết về thu nhập
Đề cập đến vấn đề thu nhập của người lao động, W. Petty khẳng định: “luật pháp chỉ phải đảm bảo cho người làm việc phương tiện để sống, bởi vì nếu cho phép họ nhận được gấp đôi, thì họ sẽ làm việc ít hơn hai lần sức mà họ có thể và đáng làm, và điều đó đối với xã hội có nghĩa là làm mất đi một lượng lao động”.
Đối với thu nhập của chủ đất ông liên hệ với khái niệm “địa tô”, đồng nghĩa với lợi nhuận của người sản xuất nông nghiệp, là chênh lệch giữa giá bánh mì và chi phí để làm ra nó. Trong đó có tính đến mức địa tô khác nhau của các mảnh đất có khoảng cách khác nhau đối với trung tâm dân cư, hoặc độ màu mỡ khác nhau của chúng.
Đối với thu nhập của người cho vay, hay phần trăm lãi suất tiền vay, ông cũng đồng nhất với “địa tô”, giải thích rằng số tiền cho vay tương ứng với mảnh đất có thể mua được trong điều kiện an ninh xã hội hoàn toàn.
Như thế W. Petty đã đề cập đến giá của đất đai. Tuy nhiên ông chỉ dừng lại ở bề mặt của hiện tượng này bằng cách lập luận: “Hầu như lúc nào cũng chỉ có ba thế hệ tiếp nối sống đồng thời. Vì vậy, tôi cho rằng, tổng địa tô trong năm hợp thành giá của mảnh đất nào đó, bằng với khoảng thời gian sống của những người thuộc ba thế hệ đó. Ở Anh của chúng ta, khoảng thời gian đó được xác định là 21 năm. Như vậy giá đất gần bằng tổng địa tô trong năm của số năm đó”.
Cách tiếp cận của W. Petty đối với giá đất có những ưu việt nhất định, thể hiện mối quan hệ qua lại giữa lãi suất và địa tô trong năm.
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- DONALD TRUMP
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KINH TẾ GIA
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia