23 tháng 4 2013
Adam Smith, FRSE (rửa tội ngày 16 tháng 6 năm 1723, hay 5 tháng 6 năm 1723 trong lịch Julian; mất ngày 17 tháng 7 năm 1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức học lớn người Scotland; là nhân vật mở đường cho phát triển lý luận kinh tế. Bộ sách Bàn về tài sản quốc gia (Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) đã giúp tạo ra kinh tế học hiện đại và cung cấp một trong những cơ sở hợp lý nổi tiếng nhất của thương mại tự do, chủ nghĩa tư bản, và chủ nghĩa tự do.
Nhờ lý thuyết về kinh tế học của Adam Smith, Charles Dickens đã đạt được cách nhìn sâu sắc nhắm vào các điều phức tạp và các sự bất công của xã hội tư bản. Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là Henry James và Henry Adams. Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích bản chất của chủ nghĩa tư bản của thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít (Marxism) đã đưa tới cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga xảy ra vào năm 1917 và sự bành trướng của Liên bang Xô viết sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Năm 1776 là năm các thuộc địa Bắc Mỹ tuyên bố độc lập và "Bản tuyên ngôn độc Lập" của Hoa Kỳ đã tạo ra các nền tảng chính trị của thế giới. Cũng vào năm 1776 xuất hiện tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia và nền triết học về "của cải” của Adam Smith đã dẫn đường cho thế giới kinh tế ngày nay. Adam Smith đã nhìn thấy một bàn tay vô hình chi phối tài sản và các cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, rồi tác giả cắt nghĩa sức mạnh và cách hoạt động của thị trường.
Cuộc đời của Adam Smith
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời. Vì vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của ông.
Không có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1.500 người gần thành phố Edinburg, xứ Scotland.
Adam Smith là con trai của ông Adam Smith trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ đất giàu có. Ông Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua đời trước khi Adam sinh ra. Người ta không biết gì về tuổi trẻ của Adam ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một nhóm người Di Gan sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.
Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học hai trường đại học Oxford và Cambridge; trong thời gian từ năm 1751 đến 1764, ông là giáo sư của trường Đại học Glasgow, vào thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng. Giảng dạy tại đại học này có giáo sư Francis Hutcheson nổi danh về ngành triết học luân lý, là người đầu tiên dạy sinh viên bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Latin. Các quan điểm về kinh tế và triết học của Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói rằng "không bao giờ có thể quên được tiến sĩ Hutcheson". Tốt nghiệp năm 1740, Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên học tập cách tự học để quán triệt các tư tưởng triết học cổ điển và đương thời. Họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã, cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các quan hệ của gia đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry Kames, Adam Smith được nhận làm giảng sư tại Đại học Edinburg với nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình công (public lecture), đây là một hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" được các nhà trí thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình công này gồm nhiều đề tài từ môn tu từ học tới ngành kinh tế chính trị. Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp chí Gentleman's Magazine đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Scotland".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm giáo sư Lý luận (professor of logic) tại Đại học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27, rồi năm sau, trở thành giáo sư môn triết học luân lý, một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên, đạo đức học, luật học và kinh tế chính trị học.
Thời gian đảm nhận chức vụ giáo sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11 giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được bầu làm trưởng khoa. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một người tiền phong về ngành hóa học, James Watt là nhà phát minh ra máy hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện hàn lâm Kiểu mẫu Anh quốc (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà buôn, nguyên viện phó của Đại học Glasgow, người sáng lập ra Câu lạc bộ Kinh tế chính trị (Political Economy Club). Nhờ đó, Adam Smith thu thập được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia.
Vào năm 1767, ông được bầu vào Hàn lâm viện Hoàng gia (The Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke, Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây, ông đã sửa chữa tác phẩm "Bàn về tài sản quốc gia" rồi sau ba năm sống nơi thành phố London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.
Adam Smith mất ngày 17 tháng 7 năm 1790 tại Edinburgh, Scotland; cả đời không kết hôn và cũng không có con.
Adam Smith với tư cách là một triết gia đạo đức
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm1759, được viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa.
Adam Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người" và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi và tự bảo tồn. Adam Smith đã cho rằng trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng vai trò một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm Các tình cảm luân lý, Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này ông lặp lại trong tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia: "con người tự tìm kiếm mình thường bị dẫn dắt bởi một bàn tay vô hình ... mà không hay biết, không do chủ đích, để làm thăng tiến các lợi ích của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.
Tác phẩm Lý thuyết về các tình cảm luân lý(*) đã sớm mang lại danh tiếng cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai sinh viên từ Moskva. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này. Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ trưởng Thương mại (Chancellor of the Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của nước Anh mà hậu quả là cuộc Cách mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức Hầu tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh viên.
Adam Smith với tư cách là học giả kinh tế chính trị
Adam Smith không phải là người đầu tiên nghiên cứu lý luận kinh tế, nhiều tư tưởng nổi tiếng cũng không phải do một mình ông tìm ra. Nhưng ông là người đầu tiên hoàn chỉnh, hệ thống hóa lý luận, đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của kinh tế học. Tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia là khởi điểm đầu của nghiên cứu chính trị kinh tế học hiện đại.
Tư tưởng kinh tế của Adam Smith chịu ảnh hưởng lớn của của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng nông. Nhưng ông vượt lên và phê phán họ.
Giữa thế kỷ 18, giới quý tộc địa chủ đã nắm giữ chính quyền, nhưng hai giai cấp mới đi lên là giới thương nhân và giới kỹ nghệ gia đã đòi hỏi và nhận được các đặc quyền. Họ chủ trương chỉ xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan cao, không cho tiền tệ ra khỏi xứ, tiền công lao động phải được duy trì ở mức thấp và giờ lao động phải dài... Tất cả các áp lực này đã được biến thành các đạo luật do Nghị viện Anh đặt ra. Nước Pháp và một số quốc gia lớn tại châu Âu cũng theo hệ thống kinh tế này, được gọi là chủ nghĩa trọng thương. Các nhà "trọng thương" chủ trương rằng tài sản và quyền lực của quốc gia được đo lường bằng mức độ tích lũy vàng và bạc. Muốn có hai kim loại quý này, quốc gia phải đi chiếm đoạt các thuộc địa. Họ không coi trọng mức sống của người dân hay các thước đo lường kinh tế khác. Họ tin tưởng rằng tài nguyên của thế giới thì có giới hạn, nên một quốc gia giàu lên thì các quốc gia khác phải nghèo khó đi. Các nhà trọng thương cũng tin rằng quốc gia phải xuất khẩu nhiều sản phẩm chế tạo, nhập khẩu nguyên liệu rẻ từ các thuộc địa và đây là các thị trường tiêu thụ. Adam Smith cho rằng các đường lối kinh tế của chủ nghĩa trọng thương là sai lầm và có hại.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại học Glasgow rồi cùng vị Hầu tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài sản của các quốc gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Genève và Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ông kính trọng. Sau đó Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là đại sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn học danh tiếng của phong trào Khai sáng Pháp (French Enlightenment) và nhờ vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế (chủ nghĩa trọng nông) và Quesnay đã phân tích lý thuyết về công việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không đồng ý với Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nông dân lao động trực tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao, nhất là ông đã tiếp thu tư tưởng về tự do kinh doanh của chủ nghĩa trọng nông.
Sau rất nhiều lần duyệt xét, có thể sau lần thảo luận với Benjamin Franklin, Adam Smith mới đưa bản thảo tác phẩm Bàn về tài sản quốc gia cho nhà in rồi vào ngày 9 tháng 3 năm 1776, cuốn sách này được xuất bản.
Lý thuyết về kinh tế của Adam Smith rất phức tạp, khó hiểu đối với người đọc ngay cả 200 năm về sau. Trong cuốn sách Lịch sử của nền văn minh, Henry Thomas Buckle đã nhận định rằng Tài sản của các quốc gia có lẽ là tác phẩm quan trọng nhất đã từng được viết ra nếu xét về tư tưởng căn bản chứa đựng hay về các ảnh hưởng thực tế.
Adam Smith hiện diện giữa hai thời đại lịch sử và ông đã biện hộ cho nền kinh tế tự do. Trong khi cuộc cách mạng công nghiệp đang tiến hành, các thương gia người Anh vì nhận rõ giá trị của các lý thuyết của Adam Smith, đã bãi bỏ các giới hạn và đặc quyền của các nhà trọng thương. Nhờ đó, trong thế kỷ 19, họ đã làm phát triển nước Anh thành quốc gia giàu có nhất thế giới. Các tư tưởng kinh tế của Adam Smith cũng ảnh hưởng tới các quốc gia mậu dịch khác và Adam Smith xứng đáng được gọi là "Người cha của nền kinh tế mới".
Những tác phẩm chính của Adam Smith
1. "Lectures on Rhetoric and Belles Lettres," 1748.
2. "The Theory of Moral Sentiments," 1759. (copies (1), (2), (3)) *
3. "Lectures on Rhetoric and Belles Lettres" (1762-1763; in 1958)
4. "Lectures on Jurisprudence," 1766.
5. "An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations," 1776. (Copy (1), (2), (3), (4), (5), French transl. - Vol. 1, Vol. 2)
6. "Account of the Life and Writings of David Hume", 1777.
7. "Thoughts on the State of the Contest with America", 1778.
8. "Essays on Philosophical Subjects", 1795 - gồm
1. "The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of Astronomy"
2. The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Physics"
3. The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated by the History of the Ancient Logic and Metaphysics"
9. "Of the External Senses"
10."Of the Nature of that Imitation which takes place in what are called the Imitative Arts"
11."Of the Affinity between certain English and Italian Verses"
12."Review of Johnson's Dictionary", 1755, Edinburgh Review
13."Letter to the Authors", 1756, Edinburgh Review
14."Preface and Dedication to William Hamilton's Poems on Several Occasions", 1748, 1758
15."Account of the Life and Writings of Adam Smith LL.D." by Dugald Stewart, 1793, Transactions of the Royal Society of Edinburgh
WILLIAM PETTY - Người đặt nền móng cho Kinh tế chính trị cổ điển Anh
William Petty (1623-1687) là người đặt nền móng cho trường phái Kinh tế chính trị cổ điển ở Anh, tác phẩm nghiên cứu của ông được xuất bản trong những năm 60-80 thế kỷ 17. K. Marx đánh giá ông là “cha đẻ của Kinh tế chính trị, nhà kinh tế học kiệt xuất và đặc sắc”. Những tác phẩm của ông được biết đến là “Luận bàn về thuế và các khoản thu” (1662), “Giải phẫu học chính trị Ireland” (1672), “Điều khác về tiền tệ” (1682). Trong các tác phẩm đó tư tưởng xuyên suốt là không công nhận đường lối bảo hộ mậu dịch của chủ nghĩa trọng thương.
William Petty sinh tại thành phố Romsi – miền nam nước Anh, trong một gia đình sản xuất vải dạ. Từ nhỏ đã tỏ ra thông minh. Năm 14 tuổi không muốn tiếp tục công việc truyền thống của gia đình, ông bỏ nhà đi làm thủy thủ thiếu niên. Một năm sau ông bị tai nạn gãy chân, phải rời tàu và lưu lạc ở bờ biển phía bắc nước Pháp. Nhờ giỏi [tiếng Latinh] ông được nhận vào học tại trường trung học chuyên nghiệp thành phố Kanne. Tại đây ông học thêm tiếng Hy lạp, tiếng Pháp, toán và thiên văn.
Trở về Anh năm 1640 sau khi tốt nghiệp trung học, ông kiếm sống bằng công việc vẽ hải đồ, và sau đó là phục vụ trên chiến hạm. Ba năm sau, đúng 20 tuổi, ông lại rời Anh để theo học ngành y ở Amsterdam và Paris. Kết thúc bốn năm du học với chứng chỉ y khoa, ông về lại Anh và lại tiếp tục theo học tại Đại học tổng hợp Oxford.
Năm 1650, lúc 27 tuổi ông được nhận học vị tiến sĩ vật lý, nhưng lại làm giáo sư phẫu thuật học tại một trường trung học chuyên nghiệp ở Anh. Sau một năm, bất ngờ ông nhận lời làm bác sĩ thuộc trung tâm chỉ huy quân sự Anh tại Ireland. Cuộc sống của một bác sĩ nghèo thay đổi từ đó. Ông đã kiếm được 9 nghìn bảng Anh nhờ vào công việc lập bản đồ cho nhà nước tại Ireland. Đó là vì ông đã đứng tên mua các khoảnh đất quân đội cấp cho các sĩ quan và lính, mà họ từ chối. Chỉ trong khoảng 10 năm, một người trí thức đa nghề 38 tuổi đã được trao tặng danh hiệu hiệp sĩ và quyền được gọi là “ngài W. Petty”. Sự giàu có cộng với trí thông minh đã biểu hiện qua công việc sau này của ông, đó là ghi chép đời sống kinh tế của xã hội và quốc gia.
Lý thuyết về sự giàu có và tiền tệ
Khác với những nhà trọng thương, theo W. Petty, sự giàu có không chỉ là vàng bạc và đá quý, mà còn là đất đai, nhà cửa, hàng hóa và thậm chí là hoàn cảnh gia đình. Câu nói bất hủ của ông lưu truyền đến tận ngày nay: “Lao động là cha và nguyên tắc chủ động của sự giàu có, và đất là mẹ của nó”.
Để tăng thu nhập nhà nước W. Petty đề nghị, thay vì tống giam người phạm tội nên dùng biện pháp phạt tiền, đối với kẻ ăn trộm mà không có tiền thì bắt làm nô lệ để lao động. Ông không công nhận vai trò đặc biệt của tiền tệ. Vì vậy ông cũng giải thích rõ thêm, nước nào làm hỏng đồng tiền của mình thì cũng đồng nghĩa với sự suy thoái, giảm uy quyền của nhà vua, phản bội lại lòng tin của dân chúng đối với tiền.
Để phát triển thêm ý tưởng trên ông cho rằng cấm chuyển tiền ra nước ngoài là vô nghĩa và không thể. Theo ông, việc đó cũng tương tự như cấm nhập khẩu hàng hóa. Trong các lập luận ông thể hiện là người ủng hộ lý thuyết tiền tệ về số lượng, hiểu rõ những quy luật về số lượng tiền cần thiết cho giao thương. Đồng thời trong đó cũng thấy rõ quan điểm sơ lược của ông về vai trò tiền tệ trong nền kinh tế. Ông là người kiên quyết phủ nhận sự đóng góp của buôn bán và tư bản thương mại trong tạo dựng của cải, đề nghị giảm bớt số lái buôn. Ông so sánh giới lái buôn như những “người chơi”, là giới làm công việc phân phối “máu” và “chất dinh dưỡng” của quốc gia - một cách ẩn dụ của ông đối với sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp.
Lý thuyết tiền tệ
Bất đồng quan điểm với chủ nghĩa trọng thương không chỉ trên phương diện bản chất sự giàu có và cách thức nhân rộng nó lên, ông còn tìm cách giải thích nguồn gốc giá trị của hàng hóa, và cả nguyên nhân làm ảnh hưởng đến mức giá cả trên thị trường. Những luận bàn xoay quanh vấn đề này cho phép công nhận ông chính là người đầu tiên đã đề ra lý thuyết lao động về giá trị. Một trong những luận điểm đó phát biểu rằng giá trị của bạc được tạo bởi lao động trong việc khai thác bạc, và ông gọi đó là “giá trị tự nhiên”. Giá trị của hàng hóa, tương đương với giá trị của bạc tính theo lao động bỏ ra, được ông gọi là “giá thị trường thật sự” của hàng hóa đó. Tuy nhiên cách tiếp cận về chi phí lao động như trên không thể làm cơ sở để giải thích được nhiều các hiện tượng kinh tế.
Lý thuyết về thu nhập
Đề cập đến vấn đề thu nhập của người lao động, W. Petty khẳng định: “luật pháp chỉ phải đảm bảo cho người làm việc phương tiện để sống, bởi vì nếu cho phép họ nhận được gấp đôi, thì họ sẽ làm việc ít hơn hai lần sức mà họ có thể và đáng làm, và điều đó đối với xã hội có nghĩa là làm mất đi một lượng lao động”.
Đối với thu nhập của chủ đất ông liên hệ với khái niệm “địa tô”, đồng nghĩa với lợi nhuận của người sản xuất nông nghiệp, là chênh lệch giữa giá bánh mì và chi phí để làm ra nó. Trong đó có tính đến mức địa tô khác nhau của các mảnh đất có khoảng cách khác nhau đối với trung tâm dân cư, hoặc độ màu mỡ khác nhau của chúng.
Đối với thu nhập của người cho vay, hay phần trăm lãi suất tiền vay, ông cũng đồng nhất với “địa tô”, giải thích rằng số tiền cho vay tương ứng với mảnh đất có thể mua được trong điều kiện an ninh xã hội hoàn toàn.
Như thế W. Petty đã đề cập đến giá của đất đai. Tuy nhiên ông chỉ dừng lại ở bề mặt của hiện tượng này bằng cách lập luận: “Hầu như lúc nào cũng chỉ có ba thế hệ tiếp nối sống đồng thời. Vì vậy, tôi cho rằng, tổng địa tô trong năm hợp thành giá của mảnh đất nào đó, bằng với khoảng thời gian sống của những người thuộc ba thế hệ đó. Ở Anh của chúng ta, khoảng thời gian đó được xác định là 21 năm. Như vậy giá đất gần bằng tổng địa tô trong năm của số năm đó”.
Cách tiếp cận của W. Petty đối với giá đất có những ưu việt nhất định, thể hiện mối quan hệ qua lại giữa lãi suất và địa tô trong năm.
NICOLAUS COPERNICUS - Nhà sáng lập học thuyết Nhật tâm
Nicolaus Copernicus (tên tiếng Ba Lan: Mikolaj Kopernik) (19 tháng 2, 1473 – 24 tháng 5, 1543) là một nhà thiên văn học đã nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) trong cuốn sách mang tính mở đầu một kỷ nguyên của ông, cuốn Về sự chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium). Copernicus sinh năm 1473 tại thành phố Toruń, ở Hoàng gia Phổ, một tỉnh tự trị của Vương quốc Ba Lan (1385–1569). Ông học tập ở Ba Lan và Ý, và dành phần lớn cuộc đời làm việc ở Frombork, Hoàng gia Phổ, nơi ông mất năm 1543.
Copernicus là một trong những học giả có hiểu biết về nhiều phương diện ở thời mình. Ông là một nhà toán học, thiên văn học, luật gia, nhà tâm lý học, học giả kinh điển, nhà cai trị, viên chức hành chính, nhà ngoại giao, nhà kinh tế, và người lính. Trong số những khả năng của mình, ông đã lựa chọn thiên văn học làm nghề nghiệp chính, sự phát triển thuyết nhật tâm (mặt trời ở trung tâm chứ không phải trái đất là trung tâm) của ông được coi là giả thuyết khoa học quan trọng nhất trong lịch sử. Nó đã đánh dấu bước chuyển sang thiên văn học hiện đại và từ đó là khoa học hiện đại, khuyến khích các nhà thiên văn trẻ, các nhà khoa học và các học giả có thái độhoài nghi với những giáo điều đã tồn tại từ trước.
Tiểu sử
Copernicus sinh năm 1473. Khi lên mười, cha ông, một nhà buôn đồng giàu có và là một công dân được kính trọng ở Toruń, qua đời. Mẹ ông, Barbara Watzenrode, có lẽ đã chết trước cha ông và ít được biết tới. Người cậu đằng mẹ của Copernicus là Lucas Watzenrode, một giáo sỹ và sau này là giám mục ủy viên Địa hạt giám mục Warmia, nuôi dạy ông và ba anh chị em ruột sau khi cha mẹ họ qua đời. Địa vị của ông chú đã giúp Copernicus có một nghề nghiệp trong nhà thờ, cho phép ông dành thời gian để nghiên cứu thiên văn. Copernicus có một người anh và hai chị em gái:
· Andreas trở thành giáo sỹ ở Frombork
· Barbara trở thành một tu sỹ dòng thánh Benedict
· Katharina cưới một nhà buôn và là ủy viên hội đồng thành phố, Barthel Gertner
Năm 1491 Copernicus vào Học viện Kraków (hiện là Trường đại học Jagiellonian) có thể ông đã làm quen với thiên văn học lần đầu tiên ở đây, và được Albert Brudzewski dạy dỗ. Môn khoa học này nhanh chóng cuốn hút ông, như được ghi lại trong những cuốn sách của ông mà sau này những người Thụy Điển đã chiếm lấy làm chiến lợi phẩm vào thời kì "Potop" ("đại nạn Ba Lan") và mang về thư viện trường đại học Uppsala). Sau bốn năm ở Kraków, và một giai đoạn ngắn ở nhà tại Toruń, ông đến Ý, nơi ông học luật và y học tại các trường đại học ở Bologna và Padua. Ông chú giám mục tài trợ chi phí cho việc học tập của ông và hy vọng ông cũng sẽ trở thành một giám mục. Tuy nhiên, khi đang học luật giáo sỹ và luật dân sự tại Ferrara, Copernicus đã gặp nhà thiên văn học nổi tiếng Domenico Maria Novara da Ferrara. Copernicus tham dự các buổi thuyết trình của ông và trở thành học trò và người trợ tá của ông. Những quan sát đầu tiên của Copernicus được tiến hành năm 1497, cùng với Novara, chúng được ghi lại trong cuốn sách kinh điển của ông Về chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium).
Năm 1497 chú của Copernicus được phong chức giám mục Warmia, và Copernicus được bổ nhiệm làm giáo sỹ ở nhà thờ Frombork, nhưng ông ở lại Ý để đợi Lễ kỷ niệm vĩ đại (Roman Jubilee) vào năm 1500. Copernicus đến Roma, nơi ông đã quan sát thấy một hiện tượng nguyện thực và giảng một số bài về thiên văn học và toán học.
Vì vậy ông chỉ có thể tới thăm Frombork vào năm 1501. Ngay khi vừa tới nơi, ông đã yêu cầu và nhận được giấy phép quay trở lại Ý để hoàn thành các nghiên cứu tại Padua (với Guarico và Fracastoro) và tại Ferrara (với Giovanni Bianchini), nơi ông nhận được bằng tiến sỹ luật giáo sỹ năm 1503. Người ta cho rằng chính Padua là nơi ông đã gặp những đoạn văn của Cicero và Plato về quan niệm cổ đại về chuyển động của Trái Đất, và từ đó hình thành trực giác đầu tiên về lý thuyết của chính mình trong tương lai. Những lần quan sát và những ý tưởng thích hợp cho lý thuyết của ông đã bắt đầu năm 1504.
Sau khi hoàn thành việc nghiên cứu, ông rời Ý đến sống và làm việc ở Frombork. Một khoảng thời gian trước khi quay trở lại Warmia, ông đã nhận được một vị trí ở Học viện Nhà thờ của Hội Thánh Linh (Holy Cross) ở Wrocław, Silesia, và ông đã từ chức này vài năm trước khi chết. Mặc dầu trong cả phần đời còn lại, ông đã thực hiện các quan sát và tính toán thiên văn nhưng chúng chỉ diễn ra trong giờ nghỉ và không được coi là nghề nghiệp của ông.
Copernicus đã làm việc nhiều năm với Nghị viện Phổ về cải cách triều đình và xuất bản một số nghiên cứu về giá trị tiền tệ; với tư cách thống đốc Warmia, ông tách thuế và thương mại ra khỏi tư pháp. Chính lần này (bắt đầu năm 1519, năm sinh của Thomas Gresham là năm Copernicus tiến tới với một trong những sự lặp lại sớm nhất về lý thuyết được gọi là Luật Gresham. Trong những năm này, ông cũng phải đi lại nhiều để giải quyết các công việc hành chính và ngoại giao, cho Tổng giám mục Warmia.
Năm 1514 ông viết Commentariolus — một bản viết tay ngắn nói về những ý tưởng của ông về những lý thuyết Nhật tâm - chỉ để trao đổi với những người bạn. Sau đó ông tiếp tục thu thập các bằng chứng cho một nghiên cứu chi tiết hơn. Trong thời gian chiến tranh giữa Quân kị sĩ Teutonic và Vương quốc Ba Lan (1519–1524) Copernicus đã bảo vệ thành công Olsztyn với cương vị chỉ huy các lực lượng hoàng gia bị bao vây bởi các lực lượng của Albert xứ Brandenburg.
Năm 1533 Albert Widmannstadt thực hiện nhiều bài diễn giảng ở Roma, giới thiệu phác thảo lý thuyết của Copernicus. Những bài giảng này được nhiều hồng y giáo chủ quan tâm, trong đó có cả Giáo hoàng Clement VII. Tới năm1536 lý thuyết của Copernicus đã hoàn thiện, và một số lời đồn đại về lý thuyết của ông đã đến tai những bậc trí thức trên toàn Châu Âu. Copernicus nhận được nhiều lời mời xuất bản từ nhiều nơi trên lục địa này.
Trong một bức thư đề ngày Roma, 1 tháng 11, 1536, Hồng y Nicola Schönberg xứ Capua đã yêu cầu Copernicus thông báo thêm về các ý tưởng của ông và muốn có một bản dành riêng cho hồng y; "Vậy thì, người có học thức, không muốn trở nên lạc lõng, Tôi yêu cầu ông trình bày thật rõ ràng khám phá của mình cho thế giới trí thức, và gửi tôi trong thời gian ngắn nhất những lý thuyết của ông về Vũ trụ, cùng với những bảng biểu và những thông tin liên quan tới vấn đề này." Một số người cho rằng bức thư này có thể đã khiến Copernicus lợi dụng nó để xuất bản (tác phẩm của ông), trong khi một số người khác cho rằng bức thư này cho thấy Nhà thờ muốn đảm bảo rằng những ý tưởng của ông phải được xuất bản.
Dù nhiều người yêu cầu, Copernicus vẫn trì hoãn việc xuất bản cuốn sách của ông; lý do chính có thể vì những lời chỉ trích đối với việc đưa ra công khai tác phẩm mang tính cách mạng này. Về vấn đề này, các nhà sử học về khoa học như Lindberg và Numbers nói rằng: "Nếu Copernicus thực sự có lo ngại về việc xuất bản cuốn sách, thì chính những phản ứng của các nhà khoa học chứ không phải của giới giáo sỹ khiến ông lo lắng. Một giáo sỹ khác trước ông - Nicole Oresme (một giám mục) ở thế kỷ 14 và Nicholas xứ Cusa (một hồng y giáo chủ) thế kỷ 15 - đã tranh luận một cách tự do về khả năng chuyển động của Trái Đất, và không có lý do để cho rằng việc ý tưởng này tái xuất hiện vào thế kỷ 16 có thể gây nên sự náo động tôn giáo."
Vào năm 1539, Copernicus vẫn đang hoàn thành kiệt tác của mình (kể cả nếu ông không tin chắc rằng mình muốn xuất bản nó) khi Georg Joachim Rheticus, một nhà toán học vĩ đại người Wittenberg, tới Frombork. Philipp Melanchthon đã sắp xếp cho Rheticus tới thăm nhiều nhà thiên văn học và nghiên cứu cùng với họ. Rheticus đã trở thành một học trò của Copernicus và đã ở lại với ông nhiều năm, trong thời gian này ông viết một cuốn sách, Narratio prima, phác thảo các nét chính của lý thuyết. Năm 1542, dưới tên Copernicus, Rheticus xuất bản một luận văn về lượng giác học (sau này được thêm vào cuốn sách thứ hai cuốn Về các chuyển động(De revolutionibus)). Dưới áp lực mạnh mẽ của Rheticus, và thấy rằng thái độ đầu tiên của mọi người đối với tác phẩm của ông là khả quan, Copernicus cuối cùng đã đồng ý trao cuốn sách cho người bạn thân của ông là Tiedemann Giese, giám mục xứ Chełmno(Kulm), để chuyển cho Rheticus in ở Nürnberg.
Truyền thuyết nói rằng bản in đầu tiên của cuốn Về những chuyển động đã được đặt vào tay Copernicus đúng vào ngày ông chết, vì vậy ông đã có thể vĩnh biệt opus vitae ("tác phẩm để đời") của ông. Có lẽ ông đã tỉnh lại sau khi bị đột quỵ-gây ra hôn mê, nhìn vào cuốn sách và chết êm ái. Copernicus được chôn tại nhà thờ Frombork. Những nỗ lực tìm kiếm xương cốt ông của các nhà khảo cổ học đã không mang lại thành công và mặc dù họ đã tìm thấy nhiều ngôi mộ đáng chú ý từ nhiều thời đại khác nhau. Ngày 3 tháng 10 năm 2005, các nhà khảo cổ học đã thông báo rằng vào tháng 8 họ đã tìm thấy xương sọ của Copernicus.
Hệ nhật tâm của Copernicus
Các lý thuyết có sớm hơn
Trước đó, đã có nhiều tài liệu viết về lý thuyết hệ nhật tâm
Những dấu vết đầu tiên về một mô hình nhật tâm được tìm thấy trong nhiều bản Kinh Vệ Đà bằng tiếng Phạn được viết ở Ấn Độ cổ trước thế kỷ thứ 7 TCN: các cuốn Vệ Đà, Aitareya Brahmana và Shatapatha Brahmana. Bài luận Vishnu Purana bằng tiếng Phạn ở thế kỷ thứ 1 viết kỹ về nhiều khái niệm nhật tâm.
Philolaus (thế kỷ thứ 4 TCN) cũng có một trong những giả thuyết đầu tiên về chuyển động của Trái Đất, có lẽ có cảm hứng từ các lý thuyết của Pythagoras về Trái Đất hình cầu.
Aristarchus xứ Samos vào thế kỷ thứ 3 TCN đã phát triển một số lý thuyết Heraclides Ponticus (nói về chuyển động của Trái Đất trên trục của nó) từ đó cho thấy, đối với những gì từng được biết, nó là mô hình chính thức đầu tiên về một hệ nhật tâm. Tác phẩm của ông về hệ nhật tâm nay đã thất truyền, do đó người ta chỉ có thể đoán ông đã đi tới những kết luận đó như thế nào. Theo Plutarch, thì có lẽ việc đáng chú ý nhất là một người cùng thời với Aristarchus đã buộc tội ông là nghịch đạo khi "bắt Trái Đất quay".
Aryabhata ở Ấn Độ đã đi trước khám phá của Copernicus 1000 năm và đã thiết lập một mô hình nhật tâm mà trong đó Trái Đất quay quanh trục của nó và chu kỳ của Trái Đất và các hành tinh được xác định theo Mặt Trời đứng yên. Ông cũng là người đầu tiên phát hiện ra rằng ánh sáng từ Mặt Trăng và các hành tinh khác là phản chiếu lại ánh sáng Mặt Trời, và rằng các hành tinh quay theo một quỹ đạo hình elíp quanh Mặt Trời.
Tác phẩm của những nhà thiên văn học Ả Rập thế kỷ thứ 14 ibn al-Shatir cũng chứa đựng những khám phá tương tự của Copernicus, và người ta cho rằng Copernicus có thể đã bị ảnh hưởng từ đó.
Copernicus đã trích dẫn Aristarchus và Philolaus trong một bản chép tay đầu tiên của cuốn sách của ông hiện vẫn còn, cho rằng: "Philolaus tin vào sự chuyển động của Trái Đất, và một số người nói rằng Aristarchus xứ Samos ủng hộ ý kiến này." Vì một số lý do còn chưa biết, ông đã bỏ đoạn này trước khi xuất bản cuốn sách.
Ý tưởng đến với Copernicus không phải từ việc quan sát các hành tinh, mà từ đọc sách của hai tác giả đó. Trong Cicero ông đã thấy trích dẫn lý thuyết của Hicetas. Plutarch cũng trích dẫn từ Pythagoras, Heraclides Ponticus, Philolaus và Ecphantes. Các tác giả đó đã đề xuất một Trái Đất chuyển động quanh một Mặt Trời ở trung tâm. Copernicus không coi ý tưởng của mình có nguồn gốc từ Aristarchus như đã được nói đến ở trên. Khi cuốn sách của Copernicus được xuất bản, nó có một lời nói đầu, được đưa lên mà không có ý kiến của ông, của nhà thần học Andreas Osiander. Giáo sỹ này cho rằng Copernicus viết cuốn sách về nhật tâm cho rằng Trái Đất chuyển động chỉ là một giả thuyết toán học, chứ không phải cho rằng đó là khả năng hay thậm chí là sự thật. Điều này hiển nhiên được viết ra để làm dịu đi phản ứng tôn giáo chống lại cuốn sách, nhưng không có bằng chứng cho thấy Copernicus đã coi hình thức nhật tâm chỉ đơn giản thích hợp về mặt toán học, không liên quan tới thực tế. Các lý thuyết của Copernicus phủ nhận lời giải thích Mặt Trời quay quanh Trái Đất trong Cựu Ước (Joshua 10:13).
Có tranh cãi rằng trong khi phát triển toán học về hệ nhật tâm, Copernicus đã sử dụng không chỉ toán học Hy Lạp mà cả toán học và thiên văn học truyền thống Hồi giáo, đặc biệt là các tác phẩm của Nasir al-Din Tusi, Mu'ayyad al-Din al-‘Urdi và ibn al-Shatir.
Hệ Ptolemy
Lý thuyết thông dụng ở Châu Âu khi Copernicus đang hoàn thành tác phẩm của mình là lý thuyết do Ptolemy viết ra trong cuốn Almagest của ông, đã xuất hiện vào khoảng năm 150. Hệ Ptolemy được hình thành từ nhiều lý thuyết coi Trái Đất là trung tâm đứng yên của vũ trụ. Các ngôi sao được gắn vào một mặt cầu bên ngoài và nó quay nhanh, ở mức độ tương đối với nhau, trong khi các hành tinh được đặt trên những mặt cầu nhỏ hơn và mỗi hành tinh có một mặt cầu riêng biệt. Để giải thích những điều kỳ lạ của quan điểm này, như chuyển động thụt lùi quan sát thấy ở nhiều hành tinh, một hệ thống các ngoại luân (epicycles) được đem ra sử dụng, theo đó hành tinh quay trên một trục nhỏ trong khi vẫn quay trên một trục lớn xung quanh Trái Đất. Một số hành tinh bị ấn định là có những ngoại luân "chính" (nhờ thế có thể quan sát được chuyển động thụt lùi) và "phụ" (chỉ đơn giản quay một chiều).
Một lý thuyết phụ trợ của Ptolemy sử dụng các mặt cầu đồng tâm: các mặt cầu bên trong mặt cầu mà hành tinh đang quay, cũng có thể quay một chút. Các nhà thiên văn cũng hay sử dụng nhiều biến thể như thuyết lệch tâm — theo đó trục quay được bù thêm và không hoàn toàn nằm ở tâm - hay được thêm các ngoại luân vào các ngoại luân.
Cống hiến duy nhất của Ptolemy cho lý thuyết này là ý tưởng về một sự cân bằng - một sự bổ sung rắc rối cho thấy rằng, khi đo chuyển động của Mặt Trời, thỉnh thoảng ta sử dụng trục trung tâm của vũ trụ, nhưng thỉnh thoảng lại đưa ra một vị trí khác. Điều này có một ảnh hưởng bao trùm khiến cho một số quỹ đạo trở nên "lắc lư," một sự thực đã làm Copernicus rất bối rối (sự lắc lư đó nêu ra sự đáng ngờ của ý tưởng về những "mặt cầu" mà các hành tinh quay trên đó). Cuối cùng, sau mọi sự phức tạp đó, các nhà thiên văn vẫn không thể làm quan sát thực tế và lý thuyết trùng khớp với nhau. Vào thời của Copernicus hệ Ptolemy kiểu mới nhất là của Peurbach (1423-1461) và Regiomontanus (1436-1476).
Lý thuyết của Copernicus
Lý thuyết chính của Copernicus được xuất bản trong cuốn, De revolutionibus orbium coelestium (Về chuyển động quay của các thiên thể) vào năm ông mất, 1543, mặc dù ông đã tiến gần tới lý thuyết này từ nhiều thập kỷ trước.
Cuốn sách này đánh dấu sự chấm dứt của thuyết địa tâm (và thuyết nhật tâm) coi Trái Đất ở trung tâm vũ trụ. Copernicus cho rằng Trái Đất là một hành tinh quay xung quanh Mặt Trời một vòng trên một năm, và quay quanh trục một vòng trên một ngày. Ông đã khám phá được vị trí chính xác của những hành tinh đã được biết và giải thích sự tiến động của những điểm phân một cách chính xác bởi sự thay đổi vị trí một cách chậm chạp của trục quay của Trái Đất. Ông cũng đưa ra giải thích rõ ràng về nguyên nhân gây ra các mùa: rằng trục của Trái Đất không vuông góc với với hành tinh trên quỹ đạo của nó. Ông cộng thêm vào sự chuyển động của Trái Đất, theo đó trục của nó được giữ hướng về đúng một điểm trên bầu trời trong suốt cả năm; từ thời Galileo Galilei, đã có thừa nhận rằng Trái Đất "không" giữ nguyên một hướng khi nó chuyển động.
Copernicus cũng thay thế những vòng cân bằng của Ptolemy bằng nhiều ngoại luân. Đây là nguồn chính cho rằng hệ của Copernicus thậm chí còn có nhiều ngoại luân hơn hệ của Ptolemy. Với sự thay đổi này, hệ của Copernicus chỉ có một kiểu chuyển động tròn duy nhất, sửa chữa lại những điều mà ông cho là không chính xác trong hệ của Ptolemy. Nhưng khi Copernicus đặt Mặt Trời vào vị trí trung tâm của mặt cầu của trời, ông không cho nó là trung tâm của vũ trụ mà chỉ ở gần nó.
Về mặt thực nghiệm, hệ của Copernicus không tốt hơn kiểu của Ptolemy. Copernicus nhận thức được điều này và không thể đưa ra "bằng chứng" quan sát trong cuốn sách của mình, thay vào đó ông lại dựa vào những tranh luận về một hệ chính xác và đúng đắn hơn. Từ khi cuốn sách được xuất bản tới khoảng năm 1700, rất ít nhà thiên văn tin vào hệ của Copernicus, mặc dù cuốn sách đó được truyền bá khá rộng (khoảng 500 bản sách được cho là vẫn còn tồn tại, đó là một con số lớn so với tiêu chuẩn khoa học của thời đó). Tuy nhiên, nhiều nhà thiên văn học, đã chấp nhận một số khía cạnh của lý thuyết so với những thuyết khác, và hệ của ông đã có ảnh hưởng lớn đối với những nhà khoa học về sau này như Galileo và Johannes Kepler, những người đã chấp nhận, và đấu tranh cho nó và (đặc biệt là trường hợp của Kepler) tìm cách cải thiện nó. Những quan sát của Galileo về các tuần của Sao Kim đã cho thấy bằng chứng quan sát thực nghiệm đầu tiên cho lý thuyết của Copernicus.
Hệ của Copernicus có thể được nói gọn trong bảy đề xuất, như chính Copernicus đã tập hợp trong một Compendium của cuốn De revolutionibus orbium coelestium được tìm thấy và xuất bản năm 1878.
Bảy phần của lý thuyết Copernicus là:
1. Không có một trung tâm của vũ trụ
2. Trung tâm của Trái Đất không phải là trung tâm vũ trụ
3. Trung tâm của vũ trụ gần Mặt Trời
4. Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời là không thể nhận thấy nếu so sánh với khoảng cách tới các ngôi sao
5. Chuyển động quay của Trái Đất giải thích cho chuyển động thấy hàng ngày của các ngôi sao
6. Những chuyển động quan sát thấy hàng năm của Mặt Trời được gây ra khi Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời
7. Chuyển động thụt lùi của các hành tinh được gây ra bởi chuyển động của Trái Đất, mà người quan sát đứng trên nó
Dù những ý kiến này có phải là "cách mạng" hay "bảo thủ" chúng là chủ đề tranh luận cho tới cuối thế kỷ 20. Thomas Kuhn đã cho rằng Copernicus đưa "một số tính chất thiên văn học vốn trước đó được cho là của Trái Đất sang cho Mặt Trời." Một số nhà sử học khác từ đó cho rằng Kuhn đã đánh giá thấp cái gọi là "cách mạng" của công trình của Copernicus, và nhấn mạnh khó khăn mà Copernicus có thể gặp phải khi đưa lý thuyết thiên văn học của mình ra mà chỉ đơn giản dựa vào hình học, mà không có bằng chứng thực nghiệm.
Về chuyển động của các thiên thể
Tác phẩm chính của Copernicus, Về chuyển động của các thiên thể (1543), là thành quả của hàng thập kỷ lao động. Nó có một lời mở đầu vô danh do Andreas Osiander, một nhà thần học và là bạn của Copernicus viết, cho rằng lý thuyết này, bị coi là một công cụ cho phép có được những tính toán đơn giản và chính xác hơn, không có ứng dụng bên ngoài phạm vi thiên văn học. Cuốn sách thực của Copernicus được bắt đầu bởi một bức thư của người bạn ông (lúc ấy đã qua đời) là Nicola Schönberg, Tổng giám mục Capua, thúc giục Copernicus xuất bản lý thuyết của mình. Sau đó, trong một bài mở rất dài, Copernicus dành tặng cuốn sách cho Đức cha Paul III, giải thích động cơ bên ngoài trong việc viết cuốn sách vì khả năng còn hạn chế của các nhà thiên văn học trước đó trong việc đưa ra một lý thuyết đầy đủ về các hành tinh, và chỉ ra rằng nếu hệ của ông làm tăng độ chính xác của các dự đoán thiên văn học nó sẽ cho phép Nhà thờ phát triển một loại lịch chính xác hơn. Lúc ấy, việc cải cách lịch Julian được coi là cần thiết và là một trong những nguyên nhân chính khiến nhà thờ trợ cấp cho thiên văn học.
Tác phẩm này được chia làm sáu cuốn:
1. Cái nhìn chung về lý thuyết nhật tâm, và một sự trình bày ngắn gọn về ý tưởng của ông về thế giới.
2. Đa số là lý thuyết, trình bày các nguyên tắc của thiên văn hình cầu và một danh sách các ngôi sao (là một nền tảng cho những tranh cãi phát triển lên trong những cuốn sách tiếp theo).
3. Đa phần dành cho những chuyển động thực tế của Mặt Trời và những hiện tượng liên quan.
4. Miêu tả Mặt Trăng và những chuyển động quỹ đạo của nó.
5. Giải thích cụ thể về hệ thống mới.
6. Trình bày cụ thể về hệ thống mới.
Copernicus và chủ nghĩa của Copernicus
Lý thuyết của Copernicus có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử văn minh loài người. Nhiều tác giả cho rằng chỉ hình học của Euclid và vật lý của Isaac Newton vàThuyết tiến hoá của Charles Darwin là có thể có ảnh hưởng ở mức so sánh được đối với văn hoá loài người nói chung và khoa học nói riêng.
Nhiều ý nghĩa đã được gán cho lý thuyết của Copernicus một phần từ ý nghĩa khoa học đúng đắn của nó. Tác phẩm của ông ảnh hưởng tới cả tôn giáo và khoa học, giáo điều cũng như tự do của vấn đề khoa học. Vị trí của Copernicus với tư cách là một nhà khoa học thường được so sánh với Galileo Galilei.
Công trình của Copernicus phản đối giáo điều tôn giáo được chấp nhận sau đó: nó có thể cho thấy rằng không cần thiết phải có một (Đức Chúa) tuyệt đối trao linh hồn, quyền lực và cuộc sống cho thế giới và con người - khoa học có thể giải thích mọi điều được cho là của Chúa.
Tuy nhiên, chủ nghĩa của Copernicus cũng mở một lối đi cho tính nội tại, quan điểm cho rằng một lực lượng siêu nhiên, hay một vị thần thánh, thâm nhập vào mọi vật tồn tại - một quan điểm từ đó được phát triển thêm trong nhiều triết học hiện đại. Chủ nghĩa nội tại cũng dẫn tới chủ nghĩa chủ quan: với lý thuyết rằng có thể nhận thức rằng những tạo vật thực tế, rằng không có thực thể tồn tại độc lập với nhận thức. Vì thế một số người cho rằng Chủ nghĩa Copernicus đánh đổ những nền tảng của khoa học Trung Cổ và siêu hình học.
Một hệ quả của Chủ nghĩa Copernicus là quy luật khoa học không cần thiết phải phù hợp với thực tế. Sự đối nghịch này với hệ của Aristotles vốn đặt cao tầm quan trọng của nguồn gốc của hiểu biết thông qua các giác quan.
Khái niệm của Copernicus đánh dấu một sự cách mạng khoa học. Thực vậy một số cho rằng nó đứng ngang bằng với sự khởi xướng của "cuộc cách mạng khoa học". Immanuel Kant mang tính biểu tượng của cách mạng do Copernicus khởi xướng - chủ nghĩa duy lý ưu việt của nó - công nhận rằng chính sự hợp lý của con người là cách làm sáng tỏ về những hiện tượng quan sát được. Những nhà triết học gần đây cũng tìm thấy những giá trị triết học trong chủ nghĩa Copernicus.
Trích dẫn
Goethe
"Trong tất cả các khám phá và ý kiến, không có cái nào có ảnh hưởng đến tinh thần hơn học thuyết của Copernicus. Thế giới mới được biết là tròn thì phải bị đòi hỏi từ bỏ đặc quyền lớn lao của địa vị trung tâm vũ trụ. Có lẽ không bao giờ nhân bị đòi hỏi lớn lao như thế — vì khi chấp nhận điều này thì nhiều việc bị tan tành mây khói! Việc gì sẽ xảy ra với Eden của chúng ta, thế giới của sự ngây thơ, lòng mộ đạo, và thi ca; bằng chứng từ giác quan; sự tin tưởng đến một niềm tin thơ - đạo? Không đáng ngạc nhiên khi những người đương thời không muốn từ bỏ những ý niệm này và chống đối bằng mọi cách một học thuyết mà những người tin tưởng cho phép và đòi hỏi một tầm nhìn tự do và ý tưởng vĩ đại chưa bao giờ được biết, hay tưởng tượng nổi."
Nietzsche
"Tôi thấy hài lòng khi nghĩ về sự đúng đắn của vị quý tộc Ba Lan lật đổ nghị quyết của một cuộc họp (nghị viện) với sự phủ quyết đơn giản; và Copernikus người Ba Lan dường như từ sự đúng đắn này chống lại tất cả các kiểu ý kiến của những người khác theo cách đúng đắn và rộng lớn nhất."
Copernicus
"Vì tôi không say mê lắm với những quan điểm của riêng mình nên tôi không coi trọng suy nghĩ của người khác về chúng. Tôi biết rằng những ý kiến của một nhà triết học không phải là chủ đề cho sự phán xét của những người bình thường, bởi vì đó chính là sự nỗ lực của ông ta nhằm tìm kiếm sự thực trong mọi vấn đề, trong phạm vi sự cho phép của Chúa trời với loài người. Tuy vậy, tôi cho rằng cần xa lánh những quan điểm hoàn toàn sai trái. Những người biết rằng sự kết luận của nhiều thế kỷ đã đưa tới việc thừa nhận quan điểm rằng trái đất đứng yên ở trung tâm vũ trụ, như trung tâm của nó là trung tâm của vũ trụ, Tôi phản đối, coi đó là một tuyên bố điên cuồng nếu tôi đưa ra điều xác nhận rằng trái đất chuyển động.
"Khi một con chuyển động êm đềm về phía trước, các thủy thủ thấy chuyển động của nó được phản ánh qua mọi sự vật bên ngoài, tuy nhiên mặt khác họ cũng có thể cho rằng mình đang đứng yên, cùng với mọi vật trên thuyền. Theo một số cách, chuyển động của trái đất có thể là điều không thể nghi ngờ đưa lại cảm giác rằng toàn thể vũ trụ đang chuyển động.
"Vì thế cùng với những lý thuyết cổ đại, vốn không còn chính xác nữa, chúng tay hãy cho phép các lý thuyết mới đó được xuất hiện, đặc biệt khi chúng tỏ ra rất chính xác, đơn giản và mang lại nhiều thông tin quan sát quý báu. Khi các lý thuyết còn được quan tâm, không ai có thể chờ đội một sự chính xác hoàn toàn từ thiên văn học, thiên văn học không thể cung cấp điều đó, ít nhất anh ta chấp nhận các ý tưởng chính xác được đưa ra cho một mục đích nào khác, và việc quay lưng lại với nó chính là điều ngu xuẩn lớn hơn việc quan tâm tới nó. Tạm biệt."
Tuyên bố của Thượng viện Ba Lan ra ngày 12 tháng 6 năm 2003
"Ở thời điểm kỷ niệm năm trăm ba mươi năm ngày sinh và bốn trăm sáu mươi năm ngày mất của Mikołaj Kopernik, Thượng viện Cộng hòa Ba Lan bày tỏ sự kính trọng sâu sắc nhất và cầu nguyện cho con người Ba Lan kiệt xuất đó, một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử Thế giới. Mikołaj Kopernik, nhà thiên văn học nổi tiếng thế igới, tác giả của công trình mang tính đột phá "O obrotach sfer niebieskich" là người đã "Bắt Mặt trời đứng yên và Trái đất chuyển động". Ông đã tự nâng mình thành một nhà toán học, kinh tế học, luật sư, bác sĩ và linh mục cũng như là một người bảo vệ Lâu đài Olsztyn trong cuộc chiến tranh Ba Lan-Teutonic kiệt xuất của đất nước. Ký ức về những thành tựu của ông sẽ tồn tại lâu dài và trở thành một nguồn cảm hứng cho các thế hệ tương lai."
Allgemeine Deutsche Biographie
"Vấn đề quốc tịch đã trở thành chủ đề của nhiều cuốn sách khác nhau; một sự tranh cãi về quốc tịch của người sáng lập ra quan niệm hiện tại của chúng ta về thế giới giữa Ba Lan và Đức, nhưng như đã được chỉ ra rằng về quốc tịch cha mẹ của Copernicus chúng ta không thể chắc chắn đươợcđiều gì; cha ông dường như khi sinh là một người slavơ, mẹ ông là một người Đức; ông đã sinh ra tại một thành phố; nơi chính quyền quản lý nó và người dân sử dụng hệ thống giáo dục Đức, tuy nhiên ông sinh ra với giấy tờ của Ba Lan; ông đã học tập tại Cracow ở thủ đô Ba Lan, sau đó tại Italia và sống tới cuối đời ở Frauenburg với tư cách một tăng hội; ông viết sách bằng tiếng Latinh và tiếng Đức. Trong khoa học ông là một con người, không thuộc về một quốc gia, công việc của ông, những nỗ lực của ông thuộc về cả thế giới, và chúng ta không quá quan tâm tới việc thực tế Copernicus là một người Ba Lan hay người Đức, mà coi ông là một người có tâm hồn tự do, một nhà thiên văn học vĩ đại, người cha của ngành thiên văn học mới, tác giả của một cái nhìn đúng đắn về thế giới."
Phần mộ
Tháng 8, 2005, một nhóm các nhà khảo cổ học do Jerzy Gąssowski, giám đốc một viện khảo cổ học và nhân loại học ở Pułtusk chỉ huy đã khám phá ra nơi mà họ cho là mộ của Copernicus sau khi kiểm tra bên dưới sàn Nhà thờ Frombork. Kết quả này có được sau một năm tìm kiếm, và việc phát hiện này chỉ được thông báo vào ngày 3 tháng 10, sau khi họ đã tiến hành tìm kiếm thêm. Gąssowski nói ông "hầu như tin chắc 100% rằng đó là Copernicus". Các chuyên gia pháp y đã sử dụng xương sọ để tái tạo một khuôn mặt rất giống với những đặc điểm trong bức chân dung của Copernicus, trong đó có cái mũi gẫy và vết sẹo trên mắt trái. Các chuyên gia cũng quả quyết rằng xương sọ này là của một người đàn ông đã chết khi khoảng 70 tuổi - tuổi của Copernicus khi ông qua đời.
Mộ ở tình trạng xấu và không phải tất cả xương cốt đều còn. Các nhà khảo cổ học hy vọng tìm thấy họ hàng của Copernicus để xác định bằng DNA.
Bối cảnh lịch sử về vấn đề quốc tịch của Copernicus
Vì sự không chắc chắn của các nhà địa lý, tới nay vẫn còn vấn đề đang tranh cãi về việc Copernicus là người Đức hay người Ba Lan. Cha của Copernicus, cũng tên là Nicolaus và có thể là họ Koppernigk, từng là một công dân của Kraków, sau này là thủ đô Ba Lan, nhưng ông đã rời thành phố này vào năm 1460 để chuyển tới Toruń. Thành phố này là một phần của Liên minh Hanseatic, cũng như là Liên bang Phổ mà chỉ vài năm trước khi Copernicus ra đời đã xảy ra một cuộc khởi nghĩa (ngay sau đó dẫn tới Cuộc chiến mười ba năm khi họ yêu cầu vua Ba Lan sáp nhập Phổ vào lãnh thổ của ông) giành độc lập từ Hiệp sĩ Teuton, những kẻ đã cai trị vùng này trong hai trăm năm, áp đặt thuế má nặng nề làm chậm phát triển kinh tế trong tỉnh. Với Hiệp ước Toruń lần hai năm 1466, thành phố này và phần phía tây của Phổ trở thành một vùng đất của Vương quốc Ba Lan mang tên Prusy Królewskie, vốn đã ủng hộ cuộc khởi nghĩa, trong khi phần đông vẫn nằm dưới quyền cai quản của nhửng hiệp sĩ Teuton trở thành miền Đông Phổ sau đó.
Copernicus, được gọi Mikołaj Kopernik trong tiếng Ba Lan và Nikolaus Kopernikus trong tiếng Đức, sinh ở Toruń và sống gần trọn cuộc đời làm việc ở Royal Prussia, một nơi tự trị và là một vùng đất của Hoàng gia Ba Lan - nó có nghị viện riêng, triều đình, ngân khố (mà Copernicus có tham gia) và quân đội. Ông cũng trông nom việc bảo vệ Allenstein/Olsztyn với vị trí chỉ huy các lực lượng của nhà vua Ba Lan khi đội quân của Albert xứ Brandenburg bao vây thành trì.
Vào thế kỷ 19, với sự nổi lên của chủ nghĩa quốc gia Đức, đã có nhiều nỗ lực nhằm tuyên bố rằng Copernicus chính là người Đức và bác bỏ những quan hệ của ông với Ba Lan, tuy nhiên, sau năm 1945 những cố gắng đó đã hoàn toàn thất bại. Để đáp lại, người Ba Lan gắng tuyên bố rằng Copernicus thực sự là người Ba Lan và cố gắng bác bỏ những nguồn gốc Đức có thể có của ông. Có lẽ gia đình ông về mặt chủng tộc là người Đức, và chắc chắn Copernicus nói thạo tiếng Đức, trong khi không có minh chứng trực tiếp về việc ông biết tiếng Ba Lan. Ngôn ngữ chính của ông dùng khi viết là tiếng Latinh. Tuy nhiên, Copernicus sinh ở Đông Phổ, sau này là Prusy Królewskie vì những mối quan hệ của nó với Vương quốc Ba Lan. Ông đã trở thành một người dân tỉnh Prussian Ermland hay Warmia, một địa phận giám mục được miễn trừ, trong suốt phần đời còn lại ông là một thần dân trung thành của Prince-Bishop Công giáo vào thời điểm khi đa số người Phổ và Đức đã theo đạo Tin lành. Hiện nay ông được chấp nhận chung là người Ba Lan. Cùng lúc đó, cần nhớ rằng trong thời Copernicus, quốc tịch có ít ý nghĩa hơn hiện nay, và mọi người thường không nghĩ rằng họ là người Ba Lan hay người Đức.
Vì thế, trong hoàn cảnh hiện tại, Copernicus có thể được coi là người Đức Ba Lan về mặt chủng tộc, nhưng đặt một con người trong lịch sử vào hoàn cảnh hiện đại thì không có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là đặt Copernicus trong hoàn cảnh lịch sử và khoa học của ông.
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHIẾN LƯỢC GIA
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DIỄN VIÊN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- DONALD TRUMP
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KINH TẾ GIA
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI PHÁT MINH
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆ
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ CỐ VẤN
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ GIÁO
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÀNH LỘC
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
BÀI VIẾT
-
▼
2024
(43)
-
▼
tháng 11
(8)
- Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 20...
- Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng ...
- Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia n...
- Nguyên Hồng - Nhà văn người Việt Nam
- Duy Quang - ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam
- Thành Lộc - Diễn viên Việt Nam
- Fritz Hofmann - Nhà hóa học Người Đức
- Tim Cook - Doanh nhân người Mỹ - Hiện là Tổng Giám...
-
▼
tháng 11
(8)
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia