23 tháng 4 2013
Spencer Johnson (sinh năm 1940) là một nhà văn và là tiến sỹ tâm lý học người Mỹ, ông là một trong những tác giả nổi tiếng nhất với các tác phẩm khám phá cuộc sống và cách sống được hàng triệu độc giả trên toàn thế giới yêu thích, hâm mộ. Ông đã giúp hàng triệu độc giả khám phá ra làm thế nào họ có thể tận hưởng cuộc sống tốt hơn bằng cách sử dụng thật đơn giản mà dẫn đến thực hiện và thành công tại nơi làm việc và ở nhà.
Những tác phẩm của ông được biết đến là những cuốn sách nhỏ đầy ý tưởng độc đáo đã và đang thuộc hàng bestselling do Thời báo Nữu Ước bình chọn như: “Quà tặng diệu kỳ”, “Có nên hay không - Những quyết định thay đổi cuộc sống”, “Phút nhìn lại mình“, “Phút dành cho cha”, “Phút dành cho mẹ”, “Phút dành cho thầy”, “Ai lấy miếng pho mát của tôi”…
Các tác phẩm độc đáo của ông đã mang lại cho độc giả mọi lứa tuổi những khám phá mới, thú vị và rất hữu ích về cách sống, cách hoàn thiện bản thân. Bằng những chân lý giản dị nhưng rất mới mẻ và thực tế, chúng hướng bạn đến thành công và hạnh phúc trong cuộc sống.
Tiểu sử
Spencer Johnson, sinh ra tại Mitchell, Nam Dakota thuộc Hoa Kỳ. Ông tốt nghiệp trường trung học Notre Dame, Sherman Oaks,California, vào năm 1957.
Vào năm 1963, ông nhận được chứng chỉ cử nhân Khoa Tâm lý học của trường Đại học Nam Califonia. Sau đó, ông tiếp tục theo học ngành y tại Đại Học Y khoa Hoàng Gia ở Ireland, ở đây ông đã được nhận bằng tiến sĩ. Ông tiếp tục nghiên cứu tại bệnh viện Mayo và Đại học Y khoa Harvard.
Ông đã từng là Giám đốc Truyền thông cho Medtronic – một công ty đồng phát minh thiết bị điều hòa nhịp tim, đồng thời là nhà nghiên cứu tâm lý tại Viện Nghiên cứu Tổng hợp và là Chuyên viên tư vấn Trung tâm nghiên cứu Nhân học.
Hiện nay, ông đang là Ủy viên Hội đồng tại Trường Đại học Harvard và ông đang sống ở Hawaii và New Hampshire.
Những tác phẩm nổi tiếng
Ông đã viết và xuất bản nhiều tác phẩm Những tác phẩm của ông được độc giả trên toàn thế giới yêu thích và vận dụng thành công vào cuộc sống thực tế của mình, những tác phẩm này đã và đang trở thành kim chỉ nam tư duy sống của nhiều thế hệ.
Đó là một loạt những cuốn sách được xếp vào hàng bán chạy nhất thế giới như:
· "Yes or "No”: Có nên hay không - Những Quyết Định Thay Đổi Cuộc Sống, bí quyết giúp bạn đưa ra những quyết định làm thay đổi cuộc sống để hạnh phúc và thành công hơn (1992). Sau đó, cuốn sách này đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ bao gồm tiếng Tây Ban Nha, Hàn Quốc và Đức.
· “Who Moved My Cheese? - An Way A Mazing”: Ai lấy mất miếng Phomát của tôi (1998). Cuốn sách này đã được nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của tờ Thời báo Nữu Ước bình chọn.
· “The Precious Present”: Món quà vô giá (1984)
· “The Present”: Quà tặng diệu kỳ - Bí mật đưa bạn đến hạnh phúc và thành công.
· “One Minute for Yourself”: Phút nhìn lại mình.
· “The One Minute Father”: Phút dành cho cha.
· “The One Minute Mother”: Phút dành cho mẹ.
· “The One Minute Teacher”: Phút dành cho thầy.
· Ông là đồng tác giả với nhà văn Kenneth Blanchard trong cuốn “The One Minute Manager”: Vị giám đốc một phút.
Các cuốn sách của ông đã được dịch sang 26 ngôn ngữ trên thế giới. Những tác phẩm nổi tiếng của ông đã chiếm được sự chú ý của các phương tiện truyền thông lớn, trong đó được các cơ quan thông tấn hàng đầu như CNN, ABC, NBC, BBC, Tạp chí Thời đại,Thời báo Nữu Ước, USA Today, Today Show, Wall Street Journal, Fortune, Business Week, Reader's Digest, Associated Press vàUnited Press International. Hiệp hội Báo chí Quốc tế đánh giá những tác phẩm này như là những “liều thuốc tinh thần” cho con người trong cuộc sống hiện đại.
Các tác phẩm của Spencer Johnson được đưa vào thảo luận, giảng dạy về nhân văn, cách sống và quản trị kinh doanh ở nhiều chương trình đại học và sau đại học, đó là câu chuyện của vô tận, sự thật đơn giản đã thay đổi công việc và cuộc sống của hàng triệu độc giả trên khắp thế giới.
Thú vị, tinh tế và đầy ý nghĩa. Đó là những gì mà tác phẩm của ông để lại trong lòng người đọc. Chúng chứa đựng những câu chuyện thực tế, những bài học đi thẳng đến trái tim, làm bừng tỉnh tâm hồn, nhận thức, chỉ ra các giải pháp đơn giản, tối ưu cho những vấn đề phức tạp mà chúng ta đang phải đối mặt trong cuộc sống hiện tại. Các giá trị ấy mang tính triết lý sống sâu sắc và mãi tồn tại với thời gian.
Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, những tác phẩm của ông đã được đến với đông đảo công chúng. Công ty First New – Trí Việt đã mua được bản quyền xuất bản theo hợp đồng chuyển giao bản quyền với các đối tác như: Tập đoàn xuất bản Doublelay Broadway một chi nhánh của Random House Inc, Hoa Kỳ; William Morrow, chi nhánh của Nhà xuất bản HaperColins Publisher Inc, Hoa Kỳ và Marganet McBride Literary Agency, Hoa Kỳ theo đó Công ty này đã giành độc quyền biên tập và phát hành ấn bản Tiếng Việt. Những tác phẩm này được xuất bản bởi Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh và đã có mặt trên thị trường.
Phương ngôn
· "Look at what happened in the past, learn something valuable from it, use what you learn toimprove the present." Spencer Johnson
Tạm dịch: "Hãy nhìn vào những gì đã xảy ra trong quá khứ, hãy học những giá trị từ nó, và sử dụng những gì bạn học để cải thiện hiện tại".
Tham khảo
· "Yes or "No”: Có nên hay không - Những Quyết Định Thay Đổi Cuộc Sống, bí quyết giúp bạn đưa ra những quyết định làm thay đổi cuộc sống để hạnh phúc và thành công hơn, Spencer Johnson, MD. Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005
· “One Minute for Yourself”: Phút nhìn lại mình, Spencer Johnson, MD. Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009
· “The Present”: Quà tặng diệu kỳ - Bí mật đưa bạn đến hạnh phúc và thành công, Spencer Johnson, MD. Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009
Bạn muốn nhận quyển sách AI LẤY MIẾNG PHÓ MÁT CỦA TÔI (của tác giả Spencer Johnson) miễn phí qua Email và tin nhắn SMS. Vui lòng nhấp vào đây.
22 tháng 4 2013
MAX PLANCK - Nhà sáng lập cơ học lượng tử, đạt giải Nobel năm 1918
Max Karl Ernst Ludwig Planck (23 tháng 4, 1858 – 4 tháng 10, 1947) là một nhà vật lý người Đức, được xem là người sáng lập cơ học lượng tử và do đó là một trong những nhà vật lý quan trọng nhất của thế kỷ 20. Ông đạt giải Nobel vật lý năm 1918.
Cuộc đời và sự nghiệp
Gia thế và niên thiếu
Max Planck xuất thân từ một gia đình có truyền thống học thuật. Ông cố Heinrich Ludwig Planck (1785–1831) và ông nội Heinrich Ludwig Planck (1785–1831) là giáo sư ngành Thần học tại Göttingen. Bố của ông, Wilhelm Johann Julius Planck (1817–1900), là giáo sư ngành luật tại Kiel và München; người chú Gottlieb Planck (1824–1907) cũng là một luật sư, là một trong những người góp phần chủ yếu lập bộ Công dân luật (Bürgerliches Gesetzbuch, viết tắt BGB).
Ông ra đời ngày 23 tháng 4 năm 1858 tại Kiel, là con của Johann Julius Wilhelm Planck và người vợ thứ hai là Emma Patzig (1821–1914); ông có bốn anh chị em ruột (Hermann, Hildegard, Adalbert và Otto), cũng như hai anh chị cùng cha khác mẹ (Hugo và Emma) đời vợ trước của Johann Julius Wilhelm Planck. Ông sống những năm đầu tại Kiel cho đến khi gia đình chuyển về München. Nơi đây, ông đi học ở trường trung học Maximilian; một trong những người bạn học của ông là người sáng lập Viện bảo tàng Đức (Deutsches Museum) Oskar von Miller. Ông tốt nghiệp phổ thông năm 16 tuổi.
Học tập
Planck rất có khiếu về âm nhạc. Ông chơi đàn dương cầm, phong cầm, cello và được đào tạo giọng hát. Ông sáng tác bài ca và một ca kịch nhỏ (Operette, 1876) cho hội sinh viên của ông, Câu lạc bộ ca nhạc München. Nhưng thay vì học âm nhạc, ông quyết định học vật lí.
Giáo sư vật lí tại München, Philipp von Jolly, khuyên ông không nên học bộ môn này vì "trong ngành này hầu như tất cả đã được nghiên cứu, và công việc còn lại chỉ là việc trám vá một vài chỗ thiếu sót không quan trọng" ("in dieser Wissenschaft schon fast alles erforscht sei, und es gelte, nur noch einige unbedeutende Lücken zu schließen") – một quan điểm được nhiều nhà vật lí thời đó đại diện. Planck ứng đáp rằng: "Tôi không ôm ấp nguyện vọng khai phá đất mới mà chỉ muốn hiểu những cơ sở đã có của khoa học vật lí, và nếu có thể, đi sâu thêm nữa" ("Ich hege nicht den Wunsch, Neuland zu entdecken, sondern lediglich, die bereits bestehenden Fundamente der physikalischen Wissenschaft zu verstehen, vielleicht auch noch zu vertiefen"). Và ông bắt đầu học ngành vật lí vào năm 1874 tại Đại học München.
Nơi Jolly, Planck thực hiện các buổi thí nghiệm duy nhất trong cả cuộc đời nghiên cứu của ông (về sự khuếch tán của khinh khí qua sự nung nóng platin); không bao lâu sau, ông chuyển qua ngành vật lí lí thuyết.
Planck đến Berlin học một năm (1877-1878) để học tập với những nhà vật lí học nổi danh là Hermann von Helmholtz và Gustav Kirchhoff cũng như nhà toán học Karl Weierstraß. Planck ghi như sau về Helmholtz: "... chẳng bao giờ chuẩn bị tốt, nói lắp bắp, luôn tính sai và làm người nghe nhàm chán", và nói về Kirchhoff: "... chuẩn bị bài dạy kĩ lưỡng, tuy nhiên, khô khan và đơn điệu". Mặc dù vậy, ông kết bạn rất thân với Helmholtz. Phần lớn ông tự học từ những bài viết của Rudolf Clausius. Qua ảnh hưởng này mà lĩnh vực nghiên cứu của ông sau này trở thành lí thuyết nhiệt học.
Tháng 10 năm 1878, ông kết thúc chương trình cao học (Lehramtsexamen), và trình luận án tiến sĩ tháng 3 năm 1879 mang tên "Luận về nguyên tắc thứ hai của nhiệt động lực học" (Über den zweiten Hauptsatz der mechanischen Wärmetheorie). Tháng 6 năm 1880, ông trình luận án hậu tiến sĩ (Habilitationsschrift) với tựa đề "Trạng thái quân bình của các vật đẳng hướng ở các nhiệt độ khác nhau" (Gleichgewichtszustände isotroper Körper in verschiedenen Temperaturen).
Sự nghiệp học thuật
Sau khi trình luận án hậu tiến sĩ, ông làm giảng sư không công tại München để chờ ứng cử giáo sư. Mặc dù các chuyên gia thời đó không lưu tâm đến ông, Max Planck vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu trong lĩnh vực lí thuyết nhiệt học, dần dần phát triển một dạng hình thức của nhiệt động học như Josiah Willard Gibbs nhưng không biết về điểm này. Khái niệm entropy – vốn được Clausius đề nhập – giữ vai trò trung tâm trong công trình của ông.
Tháng 4 năm 1855, Đại học Christian-Albrecht ở Kiel cử Planck làm phó giáo sư (Extraordinarius) môn Vật lí lí thuyết. Lương một năm của ông lúc đó là 2000 RM (Reichsmark). Các công trình nghiên cứu về entropy và cách ứng dụng nó – phần lớn để đáp ứng những vấn đề vật lí hóa học – được tiến triển. Ông đưa ra lời giải thích từ phía nhiệt động học cho thuyết phân chế điện giải (elektrolytische Dissoziationstheorie) của Svante Arrhenius. Nhưng Svante Arrhenius lại tỏ vẻ khước từ quan điểm này. Trong thời kì dạy ở Kiel này, Planck đã bắt đầu công trình nghiên cứu phân tích giả thiết nguyên tử (Atomhypothese).
Tháng 4 năm 1889, Planck được bổ nhiệm kế thừa Kirchhoff tại Berlin (người ta cho là qua sự giới thiệu của Helmholtz); từ 1892 trở đi, ông là giáo sư chính vị (Ordinarius). Lương năm của ông giờ đây là 6200 RM (cộng thêm khoảng 1000 RM cho phí dụng và bản quyền).
Năm 1907, Planck được mời làm giáo sư kế thừa Boltzmann tại Viên, nhưng ông từ chối, ở lại Berlin và để đáp ân thầy mình, sinh viên Berlin thực hiện buổi biểu tình cầm đuốc ở đây. Ông về hưu danh dự ngày 1 tháng 10 năm 1907; người thừa kế ông là Erwin Schrödinger.
Gia đình
Tháng 3 năm 1887, Planck cưới em gái của một người bạn học trung học, bà Marie Merck (1861–1909). Gia đình sống tại Kiel, đường Wilhelminenstraße 43, trọ cùng nhà với một gia đình thợ mộc. Ông có bốn người con với đời vợ này: Karl (1888–1916), hai chị em song sinh Emma (1889–1919) và Grete (1889–1917) cũng như Erwin (1893–1945).
Sau khi nhậm chức tại Berlin, gia đình Planck trú tại một villa đường Wangenheim 21, Berlin-Grunewald. Nhiều giáo sư đại học Berlin sống xung quanh và nhà của Planck trở thành trung tâm hoạt động xã hội và âm nhạc. Thuộc về những người khách thường lai vãng là những nhà khoa học nổi danh như Albert Einstein, Otto Hahn và Lise Meitner. Truyền thống tấu nhạc với nhau vốn bắt nguồn từ gia đình của Helmholtz.
Tuy nhiên, sau những năm hạnh phúc này thì gia đình Planck phải chịu nhiều hoạ nạn: Marie Planck chết ngày 17 tháng 10 năm 1909, có lẽ vì bệnh lao. Tháng 3 năm 1911, Planck cưới Marga von Hoesslin (1882–1948) và người con trai thứ ba của ông, Herrmann, sinh ra vào tháng 12.
Trong Thế chiến thứ nhất, con trai Karl của ông chết tại Verdun (Pháp), Erwin bị lính Pháp bắt giam năm 1914. Năm 1917, Grete chết trong khi sinh đứa con đầu. Chồng cô sau cưới cô em là Emma, là người sau hai năm chết cũng dưới những hoàn cảnh như vậy. Max Planck kham chịu những thảm hoạ này với một sự điềm tĩnh bất động. Hai đứa cháu gái sau mang tên của mẹ là Grete và Emma.
Cuối cùng, vào tháng 1 năm 1945, Erwin Planck bị buộc tội tham dự cuộc ám sát Hitler không thành công và xử tử hình.
Giáo sư tại Berlin
Tại Berlin, Planck gia nhập Hiệp hội Vật lí Berlin và ghi lại như sau về thời gian này: "Lúc đó, tôi là nhà lí thuyết độc nhất và vì vậy, môi trường xung quanh không dễ mấy chính vì tôi đề xuất thuyết entropy, một thuyết đương thời không được ưa chuộng vì là một quái vật toán học". Qua sự đề nghị của ông mà Hội Vật lí tự cải danh là Hiệp hội Vật lí Đức (Deutsche Physikalische Gesellschaft, DPG) vào năm 1898.
Planck dạy môn vật lí lí thuyết trong sáu học kỳ. Lise Meitner ghi lại là "lãnh đạm, hơi bàng quan". Một người dự thính người Anh khác nhắc lại là Planck "không cần giấy ghi chú, không bao giờ phạm lỗi, không bao giờ ngập ngừng; người thuyết giảng hay nhất mà tôi đã chứng kiến" (James R. Partington). Số người tham dự những buổi dạy của ông lên từ 18 (1890) đến 143 (1909). Thính giả người Anh còn ghi thêm: "Lúc nào cũng có người đứng quanh giảng đường. Vì giảng đường khá nóng và chật nên một vài người tham dự thỉnh thoảng ra ngoài hành lang, nhưng sự việc này không quấy nhiễu buổi dạy". Planck không lập trường phái nào và tổng cộng có được 20 nghiên cứu sinh với những tên tiêu biểu sau đây:
· Max Abraham 1897 (1875–1922)
· Moritz Schlick 1904 (1882–1936)
· Walther Meißner 1906 (1882–1974)
· Max von Laue 1906 (1879–1960)
· Fritz Reiche 1907 (1883–1960)
· Walter Schottky 1912 (1886–1976)
· Walther Bothe 1914 (1891–1957)
Định luật bức xạ
Vào khoảng thời gian 1894, Planck bắt đầu chú ý đến vấn đề bức xạ của của hắc thể hay vật đen vốn đã được Kirchhoff dùng công thức để trình bày vào năm 1859: Cường độ của sự bức xạ điện từ mà một hắc thể (được xem là một vật hấp thu lí tưởng, cũng được gọi là lỗ hổng bức xạ) phát ra trong trạng thái bình hoành nhiệt động lực liên quan như thế nào với tần số của sự bức xạ (ví dụ như màu của ánh sáng) và nhiệt độ của vật thể? Vấn đề này được nghiên cứu trong viện vật lí và kĩ thuật, nhưng định luật Rayleigh-Jeanskhông thể được áp dụng để giải thích những kết quả thí nghiệm với tần số cao. Wilhelm Wien lập công thức xử lí được các kết quả thí nghiệm ở tần số cao, nhưng lại bó tay trước kết quả ở tần số thấp (định luật bức xạ Wien).
Planck sáp nhập hai định luật và qua sự tiếp cận bằng thuyết entropy, ông tìm ra định luật miêu tả rất tốt kết quả thí nghiệm, định luật bức xạ Planck; định luật này được trình bày lần đầu trong một cuộc họp của DPG ngày 19 tháng 10 năm 1900.
Ngày 14 tháng 12 năm 1900, ông đã trình bày lí thuyết của định luật bức xạ; nhưng vì thế mà ông áp dụng cơ học thống kê của nhà vật lí học Ludwig Boltzmann, vốn bị ông phản bác. Ông cự tuyệt mọi quan niệm thống kê thuần tuý về định luật hai nhiệt động lực học(theo nó, entropy không bao giờ giảm với thời gian), bởi vì ông xem xét nó dưới khía cạnh tự minh bạch: "... một hành động của tuyệt vọng ... tôi đã sẵn sàng hi sinh những gì xưa nay tôi tin chắc trong vật lí" ("... ein Akt der Verzweiflung ... ich war zu jedem Opfer an meinen bisherigen physikalischen Überzeugungen bereit ..."). So sánh với nó thì giả định năng lượng chỉ được phóng ra ở dưới dạng lượng tử
E = h ν
(với h là hằng số Planck và ν tần số của sự bức xạ) gần như là việc bên lề, "một giả định hình thức thuần tuý. Tôi chẳng suy nghĩ gì nhiều khi ấy" ("... eine rein formale Annahme, ich dachte mir eigentlich nicht viel dabei ...").
Ngày nay, giả định có tính mâu thuẫn với vật lí cổ điển này được xem là điểm khởi phát của ngành vật lí lượng tử và là thành tựu khoa học lớn nhất của Max Planck. (Tuy nhiên cần nên biết là trong những công trình lí thuyết ở những năm 1877, Ludwig Boltzmann đã có lập trường một cách rất tự nhiên là mức năng lượng của một hệ thống vật lí có thể là không liên tục).
Trong thời gian sau, Planck tìm cách nắm được ý nghĩa của các lượng tử nhưng không hiệu quả. Ông ghi lại như sau: "Những thí nghiệm vô hiệu quả của tôi với mục đích sáp nhập thuyết lượng tử vào lí thuyết cổ điển bằng cách nào đó đã kéo dài nhiều năm, hao tổn rất nhiều công sức của tôi".
Các nhà vật lí học khác như John Strutt Nam tước Rayleigh, James Jeans và Hendrik Antoon Lorentz sau đó nhiều năm vẫn đặt thường số này bằng 0 để không bị xung đột với vật lí cổ điển. Nhưng Planck biết rõ là thường số này có một giá trị chính xác khác 0. Ông nhắc lại như sau: "Tôi không hiểu được sự ngoan cố của Jeans. Ông ta là một ví dụ thế nào một nhà lí thuyết không nên là, tương tự trường hợp Hegel trong triết học, và sự việc còn tệ hơn nhiều cho những sự kiện nếu chúng không đúng."
Max Born ghi lại như sau về Max Planck: "Ông có tính bẩm sinh và theo truyền thống gia đình là bảo thủ, không thiên về những đổi mới cách mạng và giữ thái độ hoài nghi với những lời phán đoán. Nhưng niềm tin của ông vào năng lực ép buộc của tư duy lập cơ sở trên sự thật lớn đến mức ông không chần chờ khi đề xuất một giả định mâu thuẫn với truyền thống, bởi vì ông tin chắc là không có một lối ra nào khác".
Quan hệ với Einstein
Năm 1905, ba công trình nghiên cứu xướng đạo của Albert Einstein – một nhà vật lí chưa từng ai biết cho đến lúc đó – xuất hiện trong Niên báo vật lí (Annalen der Physik). Planck là một trong những người hiếm hoi nhận ra ý nghĩa của lí thuyết tương đối hẹp. Nhờ ảnh hưởng của ông mà lí thuyết tương đối được công nhận và phổ biến tại nước Đức. Chính Planck cũng đã góp phần lớn trong việc khởi thảo thuyết tương đối đặc thù này.
Tuy nhiên, ban đầu giả định của Einstein về quang tử – để giải thích hiện tượng hiệu ứng quang điện do Philipp Lenard phát hiện năm1902 – đã bị Planck từ khước; ông không chịu gác qua một bên thuyết điện động lực học của Maxwell và nói rằng: "Lí thuyết về ánh sáng sẽ không bị đẩy lùi vài thập niên, mà là vài thế kỉ cho đến thời điểm Christian Huygens phản đối thuyết phát xạ mãnh liệt của Newton...".
Năm 1910, Einstein nói về ứng xử dị thường của nhiệt dung riêng ở nhiệt độ thấp như một hiện tượng không được giải thích bởi vật lí cổ điển. Để giải đáp những mâu thuẫn, Planck và Walther Nernst tổ chức cuộc hội thảo Solvay đầu tiên (Brussels 1911), và ở đây, Einstein đã thuyết phục được Max Planck về sự tồn tại của quang tử.
Trong lúc này, Planck đã nắm chức chủ nhiệm tại Đại học Berlin và cũng qua đó có khả năng gọi Einstein đến Berlin và lập cho ông một bộ môn mới (1914). Ông kết bạn thân với vị này và họ thường hoà nhạc cùng nhau.
Thế chiến thứ nhất và Cộng hoà Weimar
Khi Thế chiến thứ nhất bắt đầu, Planck cũng không thoát khỏi sự hăng hái nhiệt tình hiện hành thời. Ông ghi lại:
"Ngoài những sự kiện khủng khiếp thì cũng có những điểm to lớn và hay: Những giải đáp nhanh chóng cho những vấn đề nội chính khó nhất qua sự thống nhất của tất cả các đảng,... sự đề cao tất cả những người giỏi và chân chính."
Mặc dù khước từ tất cả các dạng chủ nghĩa dân tộc thái quá, ví như trường hợp Học viện khoa học Preußen đã trao giải thưởng cho một công trình nghiên cứu Ý dưới ảnh hưởng của ông (Planck giữ một trong bốn ghế chủ tịch hội) mặc dù Ý vừa chuyển sang phía địch thủ. Mặc dù vậy, tờ "Biểu minh của 93 nhà trí thức" (Manifest der 93 Intellektuellen), một quyển sách nhỏ tuyên truyền chiến tranh mang chữ kí của ông, trong khi thái độ chủ trương hòa bình khắt khe của Einstein gần như đã đưa ông vào tù (Einstein chỉ thoát nạn vì lúc đó mang quốc tịch Thuỵ Sĩ). Năm 1915, sau nhiều cuộc hội ngộ với Lorentz, Planck đã thu hồi các thành phần của biểu minh này và 1916, ông kí tên chống chủ nghĩa thôn tính của nước Đức.
Trong thời hỗn loạn sau chiến tranh, Planck – lúc này đã là người có thẩm quyền bậc nhất trong lĩnh vực vật lí tại Đức – ra khẩu lệnh cho các bạn đồng nghiệp là "chịu đựng và tiếp tục làm việc" (Durchhalten und weiterarbeiten). Tháng 10 năm 1920, Fritz Haber và Planck lập "Hội cấp cứu khoa học Đức" (Notgemeinschaft der Deutschen Wissenschaft) với mục đích tương trợ các công trình nghiên cứu đang trong hoàn cảnh khốn cùng. Phần lớn những nguồn tài trợ có nguồn từ ngoại quốc. Planck lúc này giữ nhiều chức vụ lớn tại Đại học Berlin, Học viện khoa học Preußen (Preußische Akademie der Wissenschaften), Hội Vật lí Đức (Deutsche Physikalische Gesellschaft) cũng như Hội Kaiser-Wilhelm (Kaiser-Wilhelm-Gesellschaft, viết tắt KWG, sau này đổi thành hội Max Planck); dưới những hoàn cảnh như thế thì việc nghiên cứu cá nhân là một việc bất khả thi.
Planck gia nhập đảng DVP, đảng của Stresemann, theo đuổi những mục đích tự do về mặt nội chính, nhưng có vẻ theo chủ nghĩa tu chính về phía ngoại giao. Ông từ khước quyền bầu cử phổ thông và quan niệm rằng chế độ Đức quốc xã sau này bắt nguồn từ sự "Bùng dậy của chính quyền số đông".
Cơ học lượng tử
Cách diễn giảng cơ học lượng tử theo trường phái Kopnenhagen của Bohr, Heisenberg và Pauli trong những năm cuối thập niên 1920 không được Planck tán thành. Cùng với ông, Schrödinger, Laue và Einstein giờ đây cũng được xếp vào hạng bảo thủ. Planck quan niệm thuyết cơ học ma trận của Heisenberg là một học thuyết kinh dị và đón chào phương trình Schrödinger như một sự giải thoát. Ông cho rằng, cơ học sóng sẽ thế chỗ cơ học lượng tử, đứa con của ông. Tuy nhiên, khoa học đã vượt qua những nghi vấn của Planck. Và định luật Planck vốn là phát kiến trong thời nghiên cứu trẻ tuổi của Planck giờ đây có giá trị cho chính ông khi nhìn nhận các phát kiến khác của giới trẻ:
Một chân lí khoa học mới thường không thắng bằng cách thuyết phục những người phản đối và họ tự thú là được dạy, mà qua việc những người này dần dần qua đời cũng như thế hệ đang lên được làm quen với chân lí ngay từ đầu.
Chế độ độc tài Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai
Khi Đức quốc xã nắm quyền năm 1933 thì Planck đã 74 tuổi. Ông phải chứng kiến sự kiện bạn bè đồng nghiệp bị trục xuất khỏi văn phòng làm việc, bị hạ nhục và chứng kiến việc hàng trăm nhà nghiên cứu phải ra khỏi nước Đức. Một lần nữa, ông áp dụng khẩu lệnh "ráng chịu đựng và tiếp tục làm việc", thỉnh cầu những nhà vật lí muốn xuất cảnh ở lại, và ông cũng thành công phần nào trong việc này (ví dụ như trường hợp Heisenberg).
Hahn hỏi Planck là có thể nào tụ hợp một số giáo sư được công nhận để làm một kháng thư chống lại việc đối xử các nhà vật lí gốc Do Thái, và Planck ứng đáp như sau: "Nếu ông tụ họp 30 người như vậy thì hôm sau 150 người khác đến phản đối, vì họ muốn có chỗ làm của những người kia." Trong trường hợp Fritz Haber Planck thậm chí đến nơi Hitler để can thiệp – dĩ nhiên là hoàn toàn vô ích. Haber mất năm 1934 tại hải ngoại.
Một năm sau, với tư cách là chủ tịch hội KWG (từ năm 1930), Planck tổ chức một buổi tưởng niệm Haber một cách thách thức. Ông cũng tạo điều kiện cho một loạt khoa học gia gốc Do Thái làm việc trong các học viện của KWG.
Năm 1936, nhiệm kì chủ tịch KWG của Planck chấm dứt, và vì sự thúc đẩy của chế độ Đức quốc xã nên ông từ khước việc ra ứng cử một lần nữa.
Dần dần, bầu không khí chính trị ngày càng gắt gao. Johannes Stark, đại biểu của nhánh Vật lí Aryan (Arische Physik) và chủ tịch viện Vật lí kĩ thuật đế quốc (Physikalisch-Technische Reichsanstalt) lăng mạ Planck trong một tờ báo của SS; Sommerfeld và Heisenberg bị gọi là "Do Thái trắng" ("weiße Juden") và ông gây nhiều điểm bất đồng trong toàn ngành Vật lí lí thuyết. "Văn phòng khoa học trung ương" tìm hiểu về gia phả của Planck nhưng chỉ đạt được một kết quả vô vị là ông chỉ có 1/16 máu Do Thái.
Năm 1938, Planck ăn mừng sinh nhật 80 tuổi. Trong khi cuộc tổ chức long trọng của DPG đang diễn biến thì nhà vật lí học ngưiời Pháp Louis de Broglie được nhận mề đai Max Planck - ngay trước khi thế chiến bắt đầu. Planck nhận được hơn 900 lời chúc mừng và ông đã đích thân hồi đáp từng lá thư.
Cuối năm 1938, học viện vật lí bị kiểm soát theo kiểu Gleichschaltung, Planck từ chức vì phản đối. Mặc dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn thường đi thuyết giảng, ví dụ như năm 1937 đi các nước ở Biển Đông châu Âu (Baltic States) với bài thuyết nổi danh là "Tôn giáo và khoa học tự nhiên" ("Religion und Naturwissenschaft") và vào năm 1943, ông còn chinh phục nổi vài ngọn núi trên 3000m ở rặng Alps.
Trong thế chiến thứ hai, quân Đồng Minh liên tục tiến hành các chiến dịch ném bom khiến Planck và vợ ông phải rời Berlin đến chỗ ở riêng bên sông Elbe. Ông viết năm 1942: "Tôi khát khao trải qua hoạn nạn và được sống cho đến khi chứng kiến bước ngoặc, khởi điểm của sự thăng tiến". Năm 1942, căn nhà của ông tại Berlin bị bom đạn tàn phá. Trong những tuần cuối của cuộc chiến, gia đình ông sa vào biên giới của phe Đồng Minh. Cuối cùng, sau chiến tranh, ông được đưa về nhà của cô cháu tại Göttingen.
Những năm cuối
Ngay sau chiến tranh, Hiệp hội Kaiser-Wilhelm (Kaiser-Wilhelm-Gesellschaft) được lập lại với sự chỉ đạo từ Göttingen; chính quyền chiếm đóng Anh bắt đặt tên khác và vì vậy, Hiệp hội Max-Planck (Max-Planck-Gesellschaft) được kiến lập (kể từ tháng 2 năm 1948). Planck lại giữ ghế chủ tịch hội về mặt hình thức.
Mặc dù các vấn đề sức khoẻ ngày càng tăng nhưng Planck vẫn tiếp tục đi thuyết giảng. Năm 1946, ông tham dự các buổi lễ của Hiệp hội hoàng gia (Royal Society) nhân dịp kỉ niệm ngày sinh nhật thứ 300 của Newton với tư cách là người Đức duy nhất được mời. Ngày 4 tháng 10 năm 1947, Planck qua đời sau khi bị té và nhiều cơn tai biến mạch máu não khác.
Quan điểm tôn giáo
Planck tận tụy và bền bỉ trung thành với đạo Thiên chúa từ thời thơ ấu cho đến khi mất nhưng ông cũng rất rộng mở với những quan điểm và tôn giáo khác và không hài lòng với những đòi hỏi về niềm tin không được thắc mắc của các tổ chức của nhà thờ Đức quốc xã.
Thiên Chúa mà Planck tin là một đấng toàn năng, biết tất cả, nhân từ nhưng không thể hiểu được, ngập tràn tất cả mọi thứ, biểu hiện bằng các biểu tượng, bao gồm các định luật vật lý. Quan điểm của ông có thể đã được thúc đẩy bởi một cách nhìn trái ngược của Einstein và Schrödinger - chống lại những nhà thực chứng, tổng kết chủ quan thế giới của cơ học lượng tử vũ trụ của Bohr,Heisenberg và những người khác. Planck quan tâm đến chân lý và vũ trụ ngoài tầm quan sát, và phản đối chủ nghĩa vô thần như là một nỗi ám ảnh với các biểu tượng.
Planck xem những nhà khoa học như một con người của trí tưởng tượng và niềm tin, "đức tin" được hiểu tương tự như "có một giả thuyết chấp nhận được" ("having a working hypothesis"). Ví dụ, các nguyên tắc của quan hệ nhân quả là không đúng hay sai mà là một hành động của đức tin.
Huy chương và vinh dự
· Huy chương Lorentz 1927
· "Pour le Mérite" dành cho khoa học và nghệ thuật 1915 (Planck là chủ tịch hội trao huân chương này từ 1930 trở đi)
· Giải Nobel Vật lý năm 1918 (được trao năm 1919)
· Huân chương con ó của Đế quốc Đức năm 1928
· Huy chương Max-Planck (1928, cùng với Einstein; giải này được tặng bởi DPG năm 1928)
· Giải Goethe năm 1945
· Tiến sĩ danh dự của các đại học Frankfurt, München (TH), Rostock, Berlin(TH), Graz, Athen, Cambridge, London và Glasgow
· Viện sĩ Viện hàn lâm giáo hoàng về Khoa học
· Tiểu hành tinh 1069 được gọi để tôn vinh Planck là "Stella Planckia" (1938)
· Từ năm 1957 đến 1971, các đồng tiền 2-DM của Đức mang hình của Max Planck.
Tác phẩm
· Planck, Max. (1897). Vorlesungen über Thermodynamik
· Planck, Max. (1900). “Entropy and Temperature of Radiant Heat.” Annalen der Physik, vol. 1. no 4. April, pg. 719-37.
· Planck, Max. (1901). "On the Law of Distribution of Energy in the Normal Spectrum". Annalen der Physik, vol. 4, p. 553 ff.
NAPOLEON HILL - Một trong những người sáng lập nên môn "thành công học"
Napoleon Hill (Sinh ngày 26 tháng 10 năm 1883 - mất ngày 8 tháng 11 năm 1970) là một tác gia người Mỹ, một trong những người sáng lập nên một thể loại văn học hiện đại đó là môn "thành công học" (là khoa học về sự thành công của cá nhân). Tác phẩm được cho là nổi tiếng nhất của ông có tên "Suy nghĩ và làm giàu" (Think and Grow Rich) là. một trong những cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại.
Trong sự nghiệp của mình, ông cũng từng được trở thành một cố vấn cho Tổng thống Franklin D. Roosevelt . Câu nói nổi tiếng thể hiện tư tưởng của ông là "Điều gì mà tâm trí có thể nhận thức và tin tưởng thì tâm trí có thể hoàn thành". Napoleon Hill được xem là người có ảnh hưởng rộng rãi nhất, mạnh mẽ nhất trong lĩnh vực thành công cá nhân.
Cuốn sách kinh điển suy nghĩ và làm giàu của ông đã giúp cho hàng triệu người trên thế giới thành công và nó có một ý nghĩa, vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đời của rất nhiều người thành công như W.Clement Stone, Og Mandino.
Tiểu sử
Thiếu thời
Napoleon Hill sinh năm 1883 ở một căn nhà nhỏ trong vùng rừng núi Virginia, từ nhỏ ông là người mồ côi mẹ. Khi còn trẻ, vì mưu sinh cho cuộc sống cơ cực, vất vả, ông đã phải làm phóng viên cho một tờ báo để có tiền đi học ở trường Đại học tổng hợp Georgetown. Và chính tài làm báo chí đã định hình cho cuộc đời sau này của ông.
Các phóng sự xuất sắc của ông thời đó đã gây chú ý cho Robert L.Taylor, gã thống đốc bang Tennessy và cũng là chủ bút tạp chí “Bob Taylors Magazine”. Ông ta đặt hàng cho nhà báo trẻ này viết một loạt bài về con đường thành đạt của những người nổi tiếng trong đó có Andrew Carnegie - ông vua ngành thép của Mỹ.
Không gây thất vọng, Hill đã gây ấn tượng sâu sắc cho Carnegie nên ông này đã tạo điều kiện cho Hill nên một sự nghiệp lớn nhưng phải đòi hỏi thời gian khá lâu khi phải phỏng vấn chi tiết 500 người Mỹ thành đạt nhất và đưa ra công thức thành công vạn năng, có thể áp dụng ngay cho những người khả năng kém cỏi nhất. Naplleon Hill đã trao đổi, phỏng vấn, đàm đạo với những người có tiếng như Henry Ford, William Rigle, Clarence Derroy, Luter Berbenk, John Pierpont Morgan và thậm chí là cả tổng thống Mỹ
Thành danh
Năm 1928, đúng hai mươi năm sau buổi nói chuyện nổi tiếng với Carnegie, ông công bố cuốn sách đầu tiên: "Giả thuyết về triết lý thành công cho cá nhân". Trong suốt thời gian thu thập tài liệu này, Hill đã phải kiếm sống bằng nhiều cách khác nhau, kể cả làm nhân viên quảng cáo trong trường Đại học tổng hợp Chicago và xuất bản tạp chí “Quy tắc vàng” hay ý tưởng vàng.
Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất, Hill là chuyên gia về quan hệ xã hội trong bộ máy của tổng thống Wilson. Năm 1933,Jennigs Randolph, thượng nghị sỹ bang Tây Virginia, đã giới thiệu ông với Teodor Ruzvelt, và ông lại một lần nữa trở thành cố vấn của tổng thống.
Sau đó, ông quyết định hệ thống hoá và hoàn thiện đề án hai mươi năm “Suy nghĩ và làm giàu” của mình. Vào năm 1952, sau khi thành lập “Hiệp hội Napoleon Hill”, ông bắt đầu tích cực truyền bá triết lý thành công cá nhân và lãnh đạo “Quỹ Napoleon Hill”, - một tổ chức giáo dục – xã hội có mục đích dạy mọi người môn “khoa học thành đạt” này.
Năm 1963, Napoleon Hill đề ra tiến độ và chương trình thành lập Viện hàn lâm thành tựu cá nhân, tổ chức cả việc dạy hàm thụ và đào tạo tại nhà. Ông đã thực hiện điều này vào năm thứ tám mươi của cuộc đời mình.
Một số tác phẩm
· Giả thuyết về triết lý thành công cho cá nhân
· Suy nghĩ và làm giàu
· Bí quyết làm giàu của Napoleon Hill
· Ý tưởng vàng
· Chìa Khóa Tư Duy Tích Cực (viết chung với Michael J. Ritt)
Danh ngôn
Điều gì mà tâm trí có thể nhận thức và tin tưởng thì tâm trí có thể hoàn thành.
Bạn có thể đạt được thành công nhanh nhất, tốt nhất bằng cách hỗ trợ cho người khác thành công.
Nhận định
"Từ sự trải nghiệm cá nhân và trải nghiệm của hàng nghìn độc giả trên toàn thế giới qua những lá thư họ viết cho tôi, tôi hiểu được rằng những bài viết của Napoleon Hill đã có sức tác động mạnh mẽ trong việc mang lại niềm hạnh phúc, sức khỏe, quyền lực và sự giàu có cho những ai ấp ủ một khao khát cháy bỏng: đạt được những mục tiêu mà mình đã đặt ra.", W. Clement Stone - cựu Tổng giám đốc Tổ chức Napoleon Hill.
ĐỌC NHIỀU
-
CUỐN SÁCH VỀ 45 ĐỜI TỔNG THỐNG MỸ, TỪ GEORGE WASHINGTON ĐẾN DONALD TRUMP, TÁI BẢN NHÂN CUỘC BẦU CỬ NĂM NAY. Sách xuất bản lần đầu năm 1980, ...
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
"Phải làm việc chăm chỉ và làm việc khôn ngoan, để sống sao cho không bao giờ phải hối tiếc". Đó là lời tâm niệm của Trần Hải Li...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11,1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi h...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Bác sĩ Nguyễn Duy Cương đồng thời là một diễn giả chuyên nghiệp, một chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực phát triển cá nhân và k...
DANH MỤC
- A
- ABRAHAM LINCOLN
- ANH HÙNG
- ARTHUR ASHE
- B
- BÁC SĨ
- BÀI CA
- BENJAMIN SPOCK
- C
- CA SĨ
- CẦU THỦ
- CEO
- CHA ĐẺ
- CHIẾN LƯỢC GIA
- CHÍNH KHÁCH
- CHÍNH TRỊ
- CHÍNH TRỊ GIA
- CHỦ TỊCH
- CHỦ TỊCH HĐQT
- CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM
- CHUYÊN GIA
- CHUYÊN GIA GIÁO DỤC
- CỐ VẤN
- CÔNG CHÚA
- CÔNG GIÁO
- D
- DANH NGÔN
- DANH NHÂN
- DANH NHÂN CỔ ĐẠI
- DANH NHÂN PHILIPPINES
- DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI
- DANH NHÂN VẦN
- DANH NHÂN VẦN A
- DANH NHÂN VẦN B
- DANH NHÂN VẦN C
- DANH NHÂN VẦN D
- DANH NHÂN VẦN Đ
- DANH NHÂN VẦN E
- DANH NHÂN VẦN F
- DANH NHÂN VẦN G
- DANH NHÂN VẦN H
- DẠNH NHÂN VẦN I
- DANH NHÂN VẦN J
- DANH NHÂN VẦN K
- DANH NHÂN VẦN L
- DANH NHÂN VẦN M
- DANH NHÂN VẦN N
- DANH NHÂN VẦN O
- DANH NHÂN VẦN P
- DANH NHÂN VẦN Q
- DANH NHÂN VẦN R
- DANH NHÂN VẦN S
- DANH NHÂN VẦN T
- DANH NHÂN VẦN V
- DANH NHÂN VẦN W
- DANH NHÂN VIỆT
- DANH NHÂN VIỆT NAM
- DANH SĨ
- DANH VẦN M
- DỊCH GIẢ
- DIỄM XƯA
- DIỄN GIẢ
- DIỄN VĂN
- DIỄN VIÊN
- DO THÁI
- DOANH NHÂN
- DONALD TRUMP
- ĐẠI KIỆN TƯỚNG CỜ VUA
- ĐẠI THI HÀO
- ĐẠI TƯỚNG
- ĐẤT NƯỚC
- G
- GIẢI NOBEL
- GIÁM ĐỐC ĐIỀU HÀNH
- GIÁM MỤC
- GIẢNG VIÊN
- GIÁO DỤC
- GIÁO SĨ
- GIÁO SƯ
- GỐC BALTIC
- GỐC DO THÁI
- GỐC PHÁP
- GỐC PHI
- Günter Wilhelm Grass
- H
- HIỀN GIẢ
- HIỀN TÀI
- HIỆN TẠI
- HOA KỲ
- HỌA SĨ
- HOÀNG ĐẾ
- HOÀNG ĐẾ NHÀ LÝ
- HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM
- HOÀNG TỬ
- I
- J.K ROWLING
- KHOA HỌC
- KHOA HỌC - CÔNG NGHỆ
- KHOA HỌC - TỰ NHIÊN
- KINH SÁCH - MỤC ĐÍCH VỊ NHÂN SINH
- KINH TẾ
- KINH TẾ GIA
- KỸ SƯ
- L
- LÃNH TỤ
- LIÊN BANG XÔ VIẾT
- LINH MỤC CÔNG GIÁO
- LUẬN VỀ DANH NGÔN
- LUẬN VỀ DANH NGÔN & DANH NHÂN
- LUẬT SƯ
- LƯƠNG THẾ VINH
- M
- MARTIN LUTHER
- MARTIN LUTHER KING
- MỤC SƯ
- N
- NAPOLEON HILL
- NGÂN HÀNG
- NGHỆ NHÂN
- NGHỆ SĨ
- NGUYỄN ĐÌNH THI
- NGUYÊN KHÍ
- NGUYỄN TRÃI
- NGƯỜI ANH
- NGƯỜI ÁO
- NGƯỜI BỈ
- NGƯỜI CUBA
- NGƯỜI DO THÁI
- NGƯỜI ĐÃ GIẢI THOÁT
- NGƯỜI ĐAN MẠCH
- NGƯỜI ĐOẠT GIẢI NOBEL
- NGƯỜI ĐỨC
- NGƯỜI HINDU
- NGƯỜI IRELAND
- NGƯỜI ISRAEL
- NGƯỜI MẪU
- NGƯỜI MỸ
- NGƯỜI MÝ
- NGƯỜI NGA
- NGƯỜI NHẬT
- NGƯỜI PHÁP
- NGƯỜI PHÁT MINH
- NGƯỜI SCOTLAND
- NGƯỜI TRUNG QUỐC
- NGƯỜI VIỆ
- NGƯỜI VIỆT
- NGƯỜI VIỆT NAM
- NGƯỜI Ý
- NHÀ BÁC HỌC
- NHÀ BÁO
- NHÀ CHẾ TẠO
- NHÀ CỐ VẤN
- NHÀ ĐỊA CHẤT
- NHÀ ĐỘNG VẬT HỌC
- NHÀ GIÁO
- NHÀ HÓA HỌC
- NHÀ HÓA HỌC. NHÀ NGỮ PHÁP
- NHÀ HÓA SINH
- NHÀ HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG
- NHÀ HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI
- NHÀ KHOA HỌC
- NHÀ LÃNH ĐẠO
- NHÀ LẬP TRÌNH
- NHÀ NGHIÊN CỨU
- NHÀ NGHIÊN CỨU Y KHOA
- NHÀ NGOẠI GIAO
- NHÀ PHÁT MINH
- NHÀ PHỤC HƯNG
- NHÀ QUÂN SỰ
- NHÀ SÁNG CHẾ
- NHÀ SÁNG LẬP
- NHÀ SINH HỌC
- NHÀ SINH LÝ HỌC
- NHÀ SINH VẬT HỌC
- NHÀ SOẠN KỊCH
- NHÀ SỬ HỌC
- NHÀ TẠO MẪU
- NHÀ THIÊN VĂN
- NHÀ THIÊN VĂN HỌC
- NHÀ THÔNG THÁI
- NHÀ THƠ
- NHÀ THƠ. NGUYỄN DU
- NHÀ TOÁN HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC
- NHÀ TRIẾT HỌC TỰ NHIÊN
- NHÀ TỰ NHIÊN HỌC
- NHÀ TỪ THIỆN
- NHÀ VĂN
- NHÀ VĂN HÓA
- NHÀ VĂN HÓA - TƯ TƯỞNG
- NHÀ VĂN VIỆT NAM
- NHÀ VẬT LÝ
- NHÀ VẬT LÝ HỌC
- NHÀ VIẾT KỊCH
- NHÀ VIRUS HỌC
- NHÀ XÃ HỘI HỌC
- NHẠC CÔNG
- NHẠC SI
- NHẠC SĨ
- NHẠC SĨ TÂN NHẠC
- NHẦ VẬT LÝ
- NHÂN KHẨU HỌC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA TRUNG QUỐC
- NHÂN VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHÂN VẬT LỊCH SỬ
- NHÂN VẬT TRUYỀN HÌNH
- NHẬT BẢN
- NHẬT VẬT HOÀNG GIA VIỆT NAM
- NHIẾP ẢNH GIA
- NỮ THỐNG THỐNG
- OPRAH WINFREY
- ÔNG CHỦ
- P
- PHI HÀNH GIA
- PHILIPPINES
- PHÓ TỔNG THỐNG HOA KỲ
- PHƯƠNG TRÌNH
- PHƯƠNG TRÌNH DIRAC
- PLATON
- S
- SÁCH HAY
- SÁNG LẬP VIÊN
- SĨ QUAN HẢI QUAN
- SOCRATES
- SỬ GIA
- T
- TÁC GIA
- TÁC GIẢ
- TÀI CHÍNH
- THÁI LAN
- THÀNH LỘC
- THÂN NHÂN TRUNG
- THẦY THUỐC
- THI HÀO
- THI SĨ
- THƠ
- THỦ LĨNH
- THỦ TƯỚNG
- TIẾN SĨ
- TIỂU THUYẾT GIA
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH
- TK - LỮ KHÁCH VÔ HÌNH CẢM TÁC
- TK - NGHIỆM
- TỔNG BÍ THƯ
- TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
- TỔNG GIÁM ĐỐC
- TỔNG THỐNG
- Tổng thống Mỹ
- TRIẾT GIA
- TRỊNH CÔNG SƠN
- TRUNG QUỐC
- TỰ VẤN
- TỶ PHÚ
- VĂN HÓA - XÃ HỘI
- VĂN SĨ
- VẬT LÝ
- VẬT LÝ LÝ THUYẾT
- VỆT NAM
- VIỆT KIỀU
- VIỆT NAM
- VÕ TƯỚNG
- VOLTAIRE
- VỘI VÀNG
- Vua
- XUÂN DIỆU
- XUÂN QUỲNH
- XUẤT BẢN SÁCH HOÀNG GIA
BÀI VIẾT
-
▼
2024
(43)
-
▼
tháng 11
(8)
- Joe Biden - Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ (2021– 20...
- Trần Việt Quân - Người lan tỏa ước mơ về một cộng ...
- Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia n...
- Nguyên Hồng - Nhà văn người Việt Nam
- Duy Quang - ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam
- Thành Lộc - Diễn viên Việt Nam
- Fritz Hofmann - Nhà hóa học Người Đức
- Tim Cook - Doanh nhân người Mỹ - Hiện là Tổng Giám...
-
▼
tháng 11
(8)
Copyright ©
THẾ GIỚI DANH NHÂN | Bản quyền thuộc về DANH NHÂN VĂN HÓA - HOÀNG GIA
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia