28 tháng 12 2024
09 tháng 8 2024
Vũ Duy Thanh - Nhà thơ - Bảng nhãn cuối cùng của Việt Nam - Người chế tạo tàu ngầm đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
02 tháng 8 2024
Shimon Peres - cựu Tổng thống Israel, Nobel hòa bình năm 1994
Shimon Peres - cựu Tổng thống Israel, Nobel hòa bình năm 1994
20 tháng 8 2022
Tôn Đức Thắng – Chính khách nổi tiếng người Việt Nam – Chủ tịch nước đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Tôn Đức Thắng – Chính khách nổi tiếng người Việt Nam – Chủ tịch nước đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Tôn Đức Thắng
(20 tháng 8 năm 1888 - 30 tháng 3 năm 1980) là một nhà cách mạng, chính khách của
Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam (từ ngày 22 tháng 9 năm
1969 đến khi qua đời); trước đó là Phó Chủ tịch nước (1960-1969) và Quyền Chủ tịch
nước (từ 2 tháng 9 cho đến 22 tháng 9 năm 1969), Trưởng ban Thường trực Quốc hội
(1955-1960) - tương đương với Chủ tịch Quốc hội bây giờ.
Sau khi kế nhiệm Hồ Chí Minh, ông trở
thành Chủ tịch nước thứ 2 và cũng là Chủ tịch nước cuối cùng của chính thể Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Chủ tịch nước đầu tiên của chính thể sau đó
- Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thân thế
Tôn Đức Thắng còn có bí danh Thoại
Tôn, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888 tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hoà Hưng, tổng Định
Thành, hạt Long Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang). Nơi thường trú tại quận Nam Từ Liêm, thủ đô Hà Nội. Là con đầu của ông
Tôn Văn Đề, và bà Nguyễn Thị Dị. Gia đình đông con, theo thông lệ miền Nam, ông
còn được gọi là Hai Thắng.
Gia đình ông thuộc hạng nông dân khá
giả nên từ nhỏ ông đã được học hành đàng hoàng. Năm 1906, sau khi tốt nghiệp Sơ
cấp tiểu học Đông Dương (Certificat d'Etudes Primaires Complémentaires
Indochinoises - CEPCI) tại Long Xuyên, ông rời quê lên Sài Gòn học nghề thợ máy
tại Trường Cơ khí Á Châu (L’école des Mécaniciens Asiatiques), dân gian thường
gọi là Trường Bá Nghệ. Tốt nghiệp hạng ưu, ông được nhận vào làm công nhân ở
Nhà máy Ba Son của Hải quân Pháp tại Sài Gòn.
Hoạt động chính trị
Thời trẻ
Năm 1912, ông tham gia tổ chức công
nhân bãi công đòi quyền lợi, vì vậy bị sa thải. Năm 1913, ông sang Pháp làm
công nhân ở Toulon (Pháp). Năm 1914, ông được tuyển mộ làm lính thợ cho một đơn
vị Hải quân Pháp, tham gia phản chiến chống lại cuộc can thiệp của Đế quốc Pháp
vào nước Nga Xô Viết tại Hắc Hải (ngày 20 tháng 4 năm 1919), treo cờ đỏ trên một
thiết giáp hạm của Pháp tại đây để ủng hộ Cách mạng Nga.
Năm 1920, ông về nước, xây dựng cơ sở
công hội (tiền thân của Công đoàn Việt Nam), vận động công nhân đấu tranh, tiêu
biểu là cuộc bãi công của công nhân Ba Son từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1925,
quyết tâm trì hoãn việc sửa chữa chiếc Đô đốc hạm Jules Michelet trong đoàn tàu
chiến Pháp đang trên đường sang Trung Quốc.
Năm 1927, ông tham gia Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, là Ủy viên Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ,
và được phân công trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ông bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn (1928), cảnh sát thực dân Pháp gán cho ông
vào tội chủ mưu giết người trong vụ ám sát một người hợp tác với chính quyền
thuộc địa Nam Kỳ tên là Phát do các đồng chí của ông thực hiện, đường Barbier
(nay là đường Thạch Thị Thanh). Nhờ có một đồng chí trẻ tự nhận là chủ mưu,
cùng với sự vận động của một số nhân sĩ trí thức người Việt như bà Trần Thị Cừu,
Đốc học Nguyễn Văn Bá, luật sư Trịnh
Đình Thảo, nên ông chỉ bị chính quyền thuộc địa tuyên án chung thân khổ
sai, đày ra Côn Đảo. Có tổng cộng hơn 60 người bị bắt trong vụ án này, theo hồi
ký Passion, Betrayal, and Revolution in Colonial Saigon: The Memoirs of Bao
Luong, của bà Nguyễn Trung Nguyệt (Bảo Lương).
Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản
Việt Nam tại Côn Đảo.
Theo ông Christoph Giebel, giáo sư
khoa Sử tại Đại học Washington, Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách nghiên cứu về
ông Tôn Đức Thắng ("Tiền bối tưởng tượng của những nhà Cộng sản Việt Nam:
Tôn Đức Thắng và chính trị của lịch sử và ký ức" - Imagined Ancestries of
Vietnamese Communism: Ton Duc Thang and the Politics of History and Memory) cho
rằng "không có bằng chứng cho thấy ngay từ thời rất trẻ, thậm chí trước cả
thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông Tôn đã hoạt động rất tích cực trong các
hoạt động cách mạng tại Sài Gòn", ông Tôn không bị bắt lính sang Pháp năm 1914
mà được tuyển mộ. Trong sự kiện ở Hắc Hải năm 1919, Giebel "tin rằng ông
Tôn Đức Thắng không có mặt trên bất kì con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh
biến ở Hắc Hải", bộ máy tuyên truyền đã dùng hình ảnh ông Tôn cắm cờ trên
một trong những con tàu ở Hắc Hải để kết nối cách mạng Việt Nam với Cách mạng
tháng Mười Nga. Trong cuộc đình công ở Ba Son năm 1925, theo Giebel không phải
là một cuộc đình công chính trị với mục đích chống đế quốc, và cũng không
"giam chân" được chiến hạm Pháp trên đường đến Trung Quốc.
Sau Cách mạng tháng 8
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông trở
về Nam Bộ tham gia kháng chiến, giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1945). Ông là Phó
ban Thường trực Quốc hội (1946-1955), Quyền Trưởng ban (1948-1955) rồi Trưởng
ban Thường trực Quốc hội (1955-1960), tương đương Chủ tịch Quốc hội sau này.
Ông là Đại biểu Quốc hội liên tục các khóa I-VI.
Về mặt chính quyền, ông là Bộ trưởng
Bộ Nội vụ (tháng 5 năm 1947-tháng 11 năm 1947); Thanh tra đặc biệt toàn quốc
(tháng 8 năm 1947), Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960-1969), Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1969-1976) và sau này là Chủ tịch nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976-1980).
Về mặt Đảng, ông là Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1947, và khóa II đến khóa IV,
nhưng không tham gia bộ chính trị.
Về mặt đoàn thể, ông là Phó hội trưởng
Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (1946-1951), Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Mặt trận
Liên Việt (1951-1955), Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (1955-1977), Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977-1981).
(Kế nhiệm ông tại Mặt trận là ông Hoàng
Quốc Việt).
Trong các văn kiện của nhà nước Việt
Nam, báo chí của Nhà nước, giai đoạn ông làm Chủ tịch nước, tên ông bao giờ
cũng được đặt lên đầu, trên cả Tổng bí thư Lê Duẩn và các lãnh đạo khác.
Ông qua đời ngày 30 tháng 3 năm 1980
tại nhà riêng Hà Nội.
Gia đình
Ông kết hôn với bà Đoàn Thị Giàu
(sinh năm 1898 tại ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;
mất ngày 25 tháng 5 năm 1974) vào năm 1921 ở nhà ông bà ngoại của bà Giàu ở xã
Vĩnh Kim, Tiền Giang. Đây là cuộc hôn nhân có ý nghĩa đền ơn trả nghĩa vì ông
đã giúp an táng ông Ba Sứ, anh trai bà Giàu, một người bạn của ông ở Pháp. Bà
Đoàn Thị Giàu là cô giáo trường làng.
Hai người sinh được hai con gái, con
gái đầu là Tôn Thị Hạnh, sinh năm 1924 và con gái thứ hai là Tôn Thị Nghiêm,
sinh năm 1928. Đầu năm 1929, hai ông bà sinh con trai thứ ba tên là Tôn Đức
Liêm, nhưng Liêm đã qua đời lúc 3 tuổi vì bị bệnh nặng.
Bà Tôn Thị Hạnh kết hôn với ông Dương
Văn Phúc, nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, vào năm 1950. Sau ngày
toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Tôn Thị Hạnh và Tôn Thị Nghiêm theo
cha lên chiến khu Việt Bắc. Tôn Thị Hạnh làm văn thư lưu trữ còn Tôn Thị Nghiêm
làm điện báo viên ở Văn phòng Trung ương.
Bà Tôn Thị Nghiêm kết hôn với ông Tưởng
Bích Trúc, Phó Tiến sĩ, Chủ nhiệm khoa Đại học Y Hà Nội. Vợ chồng bà Tôn Thị
Nghiêm đã mất vào thập niên 1980, ít năm sau khi Tôn Đức Thắng qua đời. Hai người
có ba con gái (Tưởng Bích Vân, Tưởng Bích Hà và Tưởng Hoài Nam).
Năm 1946, Tôn Đức Thắng nhận nuôi hai
người con gái nuôi là Tôn Thị Ngọc Quang, sinh năm 1927 (không phải họ Tôn, sau
1954 đổi sang họ Tôn) và Tôn Thị Tuyết Dung, sinh năm 1933. Bà Tôn Thị Ngọc
Quang làm y tá ở một Viện quân y ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, và kết hôn
với Nguyễn Thanh Phúc, quê Quảng Trị, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào.
Hai người có một con gái (Nguyễn Thanh Thanh) và hai con trai (Nguyễn Thanh
Bình và Nguyễn Thanh Phong).
Di sản
Tưởng niệm, giải thưởng
Ông được tặng thưởng Huân chương Sao
Vàng năm 1958, nhân dịp ông 70 tuổi và là người đầu tiên được tặng Huân chương
này.
Ông được Hồ Chí Minh ca ngợi là "gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời
cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân." Trong dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của ông, đoàn Chủ tịch Quốc hội
Mông Cổ đã trao tặng Chủ tịch Tôn Đức Thắng Huân chương Xukhe Bato - huân
chương cao quý nhất của Mông Cổ.
Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng tại
Long Xuyên
Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên
nhận được giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lenin do Chính phủ Liên bang Xô viết
trao tặng.
Tên ông được đặt cho một đường phố ở
thành phố Odessa, Ukraina vì liên quan đến sự kiện phản chiến ở Hắc Hải, và cũng
là tên của một trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều con đường ở Việt
Nam cũng được đặt tên theo tên ông.
Tên gọi Tôn Đức Thắng cũng được đặt
cho một giải thưởng cấp thành phố của Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh những
công nhân, kỹ sư có thành tích đặc biệt trong lao động và sản xuất.
Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (20/8/1888 - 20/8/1988), Nhà nước Việt Nam đã cho thành lập một bảo tàng với tên gọi ban đầu là "Nhà trưng bày cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng" tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó được đổi tên thành Bảo tàng Tôn Đức Thắng, bảo tàng này trước đây là tư dinh của Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Hiện nay, Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức
Thắng ở An Giang cũng đã được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích
quốc gia đặc biệt.
Phim Tổ quốc tiếng gà trưa- biên kịch
Nguyễn Quang Sáng, đạo diễn Nguyễn Huy Thành.
Đường Tôn Đức Thắng tại Việt Nam
Tên ông đặt cho đường phố ở Hà Nội (nối
Chu Văn An với Nguyễn Lương Bằng), Thành phố Hồ Chí Minh (nối Đinh Tiên Hoàng đến
đoạn cắt Võ Văn Kiệt - Hàm Nghi), Hải Phòng (từ ngã tư Tô Hiệu và Trần Nguyên
Hãn đến đường Hùng Vương), Đà Nẵng (nối Nguyễn Lương Bằng với Điện Biên Phủ), Đồng
Hới (từ ngã tư Trần Hưng Đạo, Xuân Diệu và Hoàng Diệu đến đường Hà Huy Tập),
Thành Phố Pleiku (Nối Ngô Quyền Và Phạm Hùng Với Lê Đại Hành Và QL14).
Bảo tàng
Bảo tàng Tôn Đức Thắng đặt tại Quận
1, thành phố Hồ Chí Minh, là nơi lưu giữ nhiều hình ảnh, tư liệu về Tôn Đức Thắng,
phục vụ nhu cầu thăm viếng và tưởng nhớ của người dân các tỉnh, thành phía Nam.
Một số tỉnh, thành gần đây cũng có xây dựng các phòng trưng bày về Tôn Đức Thắng,
nhưng ở quy mô nhỏ hơn.
Sưu tầm THẾ GIỚI DANH NHÂN
11 tháng 8 2022
Kido Takayoshi – Chính khách Nhật Bản dưới thời Minh Trị Duy Tân
Kido Takayoshi – Chính khách Nhật Bản dưới thời Minh Trị Duy Tân
Kido Takayoshi
(木戸 孝允 (Mộc Hộ Hiếu Doãn) Kido Takayoshi?) (11
tháng 8 năm 1833 – 26 tháng 5 năm 1877), còn được gọi là Kido Kōin là một chính khách Nhật Bản dưới thời Mạc Mạt và
Minh Trị Duy Tân. Ông sử dụng bí danh Niibori Matsusuke (新堀 松輔) (Tân Quật
Tùng Phụ) khi ông hoạt động chống lại shogun.
Thời trai trẻ
Kido sinh ra ở Hagi, phiên Chōshū
(ngày nay là tỉnh Yamaguchi) là con trai út của Wada Masakage (和田 昌景) (Hòa Điền
Xương Cảnh), một bác sĩ samurai. Ông được gia đình Katsura nhận nuôi năm lên 7
tuổi, và cho đến năm 1865 vẫn được gọi là Katsura Kogorō (桂小 五郎) (Quế Tiểu Ngũ
Lang). Ông được học tập tại học viện của Yoshida
Shōin, từ đây ông tiếp nhận nền triết học trung thành với Hoàng gia.
Năm 1852, ông đến Edo để học kiếm thuật,
lập mối quan hệ thân thiết với các samurai cấp tiến từ phiên Mito, học kỹ thuật
pháo binh từ Egawa Tarōzaemon, và (sau khi quan sát việc đóng các con tàu nước
ngoài tại Nagasaki và Shimoda), trở về Chōshū để giám sát việc đóng mới tàu chiến
kiểu Tây đầu tiên của phiên mình.
Lật đổ Mạc phủ Tokugawa
Sau năm 1858, Kido đóng căn cứ ở dinh
thự của phiên tại Edo, nơi ông làm nhiệm vụ liên lạc giữa chính quyền phiên và
các nhân tố cấp tiến trong giới samurai trẻ, cấp bậc thấp ở Chōshū ủng hộ phong
trào Sonnō jōi. Bị Mạc phụ nghi ngờ về mối quan hệ của ông với những người
trung quân ở Mito, sau nỗ lực ám sát Andō Nobumasa, ông được chuyển đến Kyōto.
Tuy nhiên, trong khi ở Kyoto, ông không thể ngăn cản được cuộc đảo chính ngày
30 tháng 9 năm 1863 của binh lính hai phiên Aizu và Satsuma, đánh đuổi quân
Choshu ra khỏi thành phố. Ông cũng tham dự và nỗ lực bất thành của Choshu nhằm
giành lại thành phố ngày 20 tháng 8 năm 1864, và buộc phải lẫn trốn với geisha
tên là Ikumatsu, người sau này trở thành vợ ông.
Sau khi các phần tử cấp tiến dưới quyền
Takasugi Shinsaku nắm quyền kiểm
soát nền chính trị Choshu, Kido đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập
Liên minh Satchō, đóng vai trò quyết định trong Chiến tranh Boshin và cuộc Minh
Trị Duy Tân sau này.
Chính khách thời Meiji
Sau khi lật đổ Mạc phủ Tokugawa, Kido giữ vai trò to lớn trong việc thành lập
chính quyền Meiji. Là một sangi (Cố vấn Hoàng gia) ông giúp soạn thảo Ngũ cá điều
ngự thệ văn, và khởi động các chính sách tập quyền hóa và hiện đại hóa. Ông trực
tiếp thực hiện việc giải thể hệ thống han.
Năm 1871, ông đi cùng phái đoàn
Iwakura trên chuyến hải hành vòng quanh thế giới đến Hoa Kỳ và châu Âu, và ông
đặc biệt thích thú với nền chính trị và hệ thống giáo dục phương Tây. Trên đường
trở về Nhật Bản, ông trở thành người chủ trương mạnh mẽ thành lập chính phủ đại
nghị. Nhận ra rằng Nhật Bản không hề có tư cách thách thức các cường quốc
phương Tây trong tình trạng hiện nay, ông cũng trở về Nhật Bản đúng lúc để ngăn
chặn cuộc xâm lược Triều Tiên (Seikanron).
Kido mất vị trí đứng đầu nhóm đầu sỏ
chính trị thời Meiji vào tay Ōkubo
Toshimichi, và từ nhiệm để phản đối cuộc Viễn chinh Đài Loan năm 1874, mà
ông chống đối kịch liệt.
Sau Hội nghị Ōsaka năm 1875, Kido đồng
ý trở lại chính quyền, trở thành Chủ tịch của Hội đồng các Thống đốc tỉnh mà Hội
nghị Osaka đã lập ra. Ông cũng chịu trách nhiệm trong việc dạy dỗ Thiên hoàng Meiji còn nhỏ tuổi.
Giữa cuộc nổi loạn Satsuma năm 1877,
ông qua đời vì bệnh não. Lúc đó, ông mới có 43 tuổi.
Di sản
Nhật ký của Kido hé lộ cuộc đấu tranh
nội tâm căng thẳng giữa một bên là lòng trung thành với phiên nhà Choshu, và một
bên là lợi ích của quốc gia. Ông viết về việc thường phải chống lại những tin đồn
thất thiệt ở quê nhà rằng ông đã phản bội bạn bè cũ; ý tưởng về một quốc gia vẫn
còn tương đối mới ở Nhật Bản và vì vậy phần lớn các samurai quan tâm nhiều hơn
đến bảo vệ đặc quyền của phiên mình.
Cùng với Saigō Takamori vàd Ōkubo
Toshimichi, ông là một trong Ishin-no-Sanketsu
(維新の三傑), nghĩa là, "Duy Tân Tam Kiệt.
Cháu nội của em gái ông là chính trị gia Tokyo Kido Kōichi (木戸 幸一) (Mộc Hộ Hạnh
Nhất).
Sưu tầm THẾ GIỚI DANH NHÂN
07 tháng 8 2022
Võ Chí Công – Chính khách Việt Nam – Cựu Chủ tịch nước Thứ 3 của Việt Nam
Võ Chí Công – Chính khách Việt Nam – Cựu Chủ tịch nước Thứ 3 của Việt Nam
Võ Chí Công (7 tháng 8 năm 1912 – 8 tháng 9 năm 2011)
tên khai sinh là Võ Toàn, bí danh Năm Công, là một cựu chính khách của Việt
Nam. Ông là Chủ tịch nước thứ 3 của Việt Nam (có lúc gọi là Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Việt Nam) từ năm 1987 đến năm 1992.
Trước đó ông từng là Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp (1977–1979), Bộ trưởng Bộ Hải sản (1976–1977). Trong thời kỳ Chiến
tranh Việt Nam, ông là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1961–1975), Phó Chủ
tịch Thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1962–1976), Chủ
tịch Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (1962–1975).
Thân thế
Ông tên thật là Võ Toàn, sinh ngày 7
tháng 8 năm 1912, tại làng Tam Mỹ, tổng Phú Quý, phủ Tam Kỳ, nay là thôn Khương
Mỹ, xã Tam Xuân I, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là cụ Võ Nghiệm, một
nhà nho yêu nước, về sau cũng là một đảng viên Cộng sản trong chi bộ do con
trai mình làm bí thư, được nhà nước Việt Nam truy tặng là Liệt sĩ. Mẹ ông là
Nguyễn Thị Thân, về sau được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam anh hùng.
Do sinh trưởng trong một gia đình nhà
nho, từ nhỏ, ông được giáo dục về tinh thần dân tộc yêu nước và chịu ảnh hưởng
của nhiều chí sĩ đất Quảng như Hoàng Diệu,
Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... và các phong trào đấu tranh chống
thuế, đòi dân sinh, dân chủ của dân chúng vùng Nam Trung Kỳ.
Bắt đầu hoạt động cách mạng
Từ năm 1930 đến 1934, ông tham gia hoạt
động trong các phong trào thanh niên do những người Cộng sản tổ chức. Năm 1935,
ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và năm 1936, ông được cử làm Bí thư chi bộ
ghép một số xã thuộc Huyện Tam Kỳ, trong đó có nhiều người thân trong gia tộc
ông, kể cả cha ông là cụ Võ Nghiệm.
Bấy giờ, do tác động của chính phủ Mặt
trận Bình dân (Pháp), nhiều đảng viên Cộng sản hoạt động công khai. Tuy nhiên,
sau khi chính phủ Mặt trận Bình dân đổ, chính quyền thực dân Pháp đàn áp mạnh mẽ
các phong trào dân chủ ở thuộc địa. Nhiều lãnh đạo Cộng sản bị bắt và cơ sở tan
vỡ. Bản thân ông cũng bị truy lùng, phải giả làm người bán thuốc lá dạo vừa để
lẩn trốn, vừa giữ gìn và xây dựng lại cơ sở. Đầu năm 1939, ông được cử làm Bí
thư Huyện ủy Tam Kỳ.
Lãnh đạo phong trào ở Trung Kỳ
Tháng 8 năm 1939, Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Nam là Nguyễn Đức Thiệu bị bắt cùng với nhiều cán bộ Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Quảng Nam
gần như ngưng hoạt động. Tháng 3 năm 1940, một Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam được
thành lập và ông được bầu làm Bí thư. Tháng 10 năm 1940, ông Hồ Tỵ thay ông giữ
chức Bí thư.
Tháng 10 năm 1941, ông được cử vào Xứ
ủy Trung Kỳ vừa được tái lập, được phân công phụ trách các tỉnh từ Đà Nẵng đến
Phú Yên. Đầu năm 1942, chính quyền thực dân Pháp khủng bố phong trào cách mạng
các tỉnh miền Trung, nhiều cán bộ Xứ uỷ Trung kỳ và các tỉnh bị bắt, một số tạm
chuyển vùng hoạt động để bắt liên lạc với cấp trên. Bản thân ông phải lánh vào
các tỉnh cực nam Trung Bộ, sau đó tiếp tục lên Đà Lạt xây dựng cơ sở.
Tháng 6 năm 1942, Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Nam là Trương Hoàn bị bắt, bị chính quyền thực dân kết án 20 năm tù giam, đày
lên Buôn Ma Thuột. Ông được điều về giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam lần thứ
2. Tháng 8 năm 1942, Liên Tỉnh Thành ủy Quảng Nam – Hội An – Đà Nẵng được thành
lập và sau Hội nghị 16 tháng 1 năm 1943 thì 3 đảng bộ hợp nhất thành Đảng bộ Quảng
Nam. Ông được bầu làm Bí thư của Đảng bộ Quảng Nam mới.
Tháng 10 năm 1943, do sự phản bội của
một tỉnh ủy viên tên Cao Tiến Khai, ông và một số cán bộ tỉnh ủy là Nguyễn Sắc
Kim và Lê Bá bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Ông bị kết án tù chung
thân, sau đó giảm xuống 25 năm tù giam ở nhà lao Hội An, sau đó chuyển sang đi
đày ở Buôn Ma Thuột, bị giam cấm cố (khám số 2) không cho giao tiếp với ai.
Công tác ở Khu ủy Khu V
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo
chính Pháp tại Đông Dương. Để mị dân, lôi kéo người Việt Nam ủng hộ sự cai trị
của Nhật, quân đội Nhật đã cho thả nhiều tù chính trị, trong đó có cả Võ Toàn.
Sau khi được trả tự do, ông về Quảng Nam, được phân công vào Ban Cứu quốc của Tỉnh
bộ Việt Minh Quảng Nam, làm Trưởng ban khởi nghĩa, chuẩn bị cướp chính quyền.
Do nỗ lực của ông và các đồng chí,
cũng như chủ động nhanh nhạy, khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Nam, khởi đầu
từ Hội An, diễn ra ngày 17 tháng 8 năm 1945. Quảng Nam trở thành một trong 4 tỉnh
giành được chính quyền sớm nhất cả nước.
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công,
ông được cử làm Trưởng ty Tư pháp tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Khi Pháp tái chiếm
Đông Dương, ông được cử làm Chính trị viên Trung đoàn 93. Đầu năm 1946, ông làm
Phó ban Tổ chức cán bộ và Thanh tra Quân khu V.
Năm 1951, ông làm Bí thư Ban cán sự Đông
– Bắc Miên, Khu ủy viên Liên khu V. Tháng 3 năm 1952, ông được cử làm Bí thư Tỉnh
ủy Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ 3. Ông giữ chức vụ này đến hết năm 1953. Đầu năm
1954, ông dẫn một đoàn cán bộ lãnh đạo Liên khu 5 ra Bắc học tập kinh nghiệm về
cải cách ruộng đất, sau đó được phân công làm Đoàn ủy viên cải cách ruộng đất ở
Việt Bắc. Ông được cho là một trong những người đã phát hiện và báo cáo với
Trung ương về những sai lầm gây mất đoàn kết ở nông thôn, đồng thời chủ trương
không thực hiện cải cách ruộng đất mà chỉ thực hiện giảm tô, hiến ruộng đất. Do
động thái này mà Cải cách ruộng đất tạm thời chưa thực hiện triệt để.
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông được
phân công trở lại Khu V, hoạt động bí mật thay vì tập kết ra Bắc, giữ chức Phó
Bí thư Khu ủy. Năm 1960, ông ra Bắc và là một trong những người ủng hộ chủ
trương chuyển hướng đấu tranh và tham gia xây dựng Nghị quyết 15. Tháng 9 năm
1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy Khu V.
Ngày 23 tháng 1 năm 1961, Trung ương
Cục miền Nam đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng thành lập. Với bí danh Võ
Chí Công, hoặc Năm Công, ông được phân công làm Phó bí thư Trung ương Cục. Sau
khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, năm 1962, ông
được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương, đại diện của đảng tại Mặt trận.
Năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, phụ trách
Bí thư Khu ủy Khu V, Chính ủy Quân khu V. Năm 1975, ông được cử làm Phó ban Đại
diện Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam.
Hoạt động trong chính phủ thống nhất
Từ ngày Việt Nam thống nhất, ông
trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI, được cử giữ chức Phó Thủ tướng Việt
Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Hải sản mới được thành lập, sau khi sáp nhập 2 Tổng cục
Thủy sản miền bắc và miền nam. Nhưng ông chỉ làm Bộ trưởng Bộ Hải sản trong
vòng 5 tháng, thay thế ông là Nguyễn Văn Lâm.
Đến tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam IV ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban
Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Trưởng ban Cải tạo nông nghiệp miền Nam.
Từ tháng 4 năm 1981, trúng cử Đại biểu
Quốc hội Việt Nam khóa VII, được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam V (3/1982) được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, được Ban Chấp hành bầu vào Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, được
phân công làm Thường trực Ban Bí thư.
Từ tháng 6 năm 1986, ông được phân
công giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI (12/1986), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp
hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Từ tháng 6 năm 1987 đến tháng 9 năm
1992: Trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá VIII và được Quốc hội bầu làm Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam.
Từ tháng 6 năm 1991 đến tháng 12 năm
1997: là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Qua đời và lễ tang
Vào lúc 7h17 ngày 8 tháng 9 năm 2011,
Võ Chí Công được xác nhận là đã qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Thống
Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ sau khi lễ mừng thọ 100 tuổi mới khép lại được
1 tháng. Ông cũng ghi kỷ lục nguyên chủ tịch nước có thời gian sống lâu nhất từ
đó tới nay.
Ngày 8/9/2011, Đài truyền hình Việt
Nam đã đưa ra thông cáo về cái chết của ông, qua đó quyết định tổ chức tang lễ
dành cho ông theo nghi thức Quốc tang trong 3 ngày (10, 11 và 12 tháng 9 năm
2011). Lễ viếng và lễ truy điệu được tổ chức đồng thời tại ba nơi, là Thủ đô Hà
Nội, Hội trường Thống Nhất (nơi đặt linh cữu của ông) và trụ sở Tỉnh ủy Quảng
Nam (quê hương ông). Lễ truy điệu tổ chức vào ngày 12 tháng 9 năm 2011, sau đó
đến 7h15 cùng ngày, linh cữu của ông được đi an táng tại nghĩa trang Thành phố
Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
·
"Trên những chặng đường cách mạng"
(Hồi ký), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
Vinh danh
·
Với những đóng góp của mình, ông đã
được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Sao vàng năm 1992. Năm 2010, ông
được nhà nước Việt Nam trao tặng Huy Hiệu 70 năm tuổi Đảng. Ngày 6 tháng 8 năm
2011, Đảng, nhà nước Việt Nam đã tổ chức lễ mừng thọ 100 tuổi dành cho ông. Một
Nhà lưu niệm ông cũng đã được xây dựng tại thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân 1, huyện
Núi Thành. Một tập sách mang tên "Võ
Chí Công người con ưu tú của quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng" cũng được
xuất bản.
·
Tên ông đặt cho đường phố ở Đà Nẵng
(nối Nguyễn Hữu Thọ với Trần Đại Nghĩa), Hà Nội (nối từ cầu Nhật
Tân đến đầu đường Hoàng Quốc Việt,
đoạn vành đai 2), ở TP.HCM tên ông đặt cho đường vành đai 2 đoạn từ Khu Công
nghệ cao quận 9 đến cầu Phú Mỹ. Tại Đà Nẵng và tại quê hương ông có một trường
trung học phổ thông mang tên THPT Võ Chí Công nhưng ở huyện Tây Giang, trường
còn lại ở quận Ngũ Hành Sơn.
Nguồn WIKIPEDIA
27 tháng 7 2022
Nguyễn Xiển – Chính khách Việt Nam
Nguyễn Xiển – Chính khách Việt Nam
Nguyễn Xiển
(27/7/1907 - 9/11/1997), đồng thời cũng là một
chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Tổng Thư ký Đảng Xã hội Việt Nam (1956–1988) và Phó Chủ tịch Ủy ban
Thường vụ Quốc hội Việt Nam (từ năm 1960 đến 1987).
Tiểu sử
Ông sinh ngày 27 tháng 7 năm 1907 tại
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình nho học lâu đời. Thuở nhỏ, ông
học tại trường Tiểu học, Trung học ở Vinh. Hồi còn học ở trường Quốc học Vinh
(Nghệ An) ông đã là học sinh xuất sắc, đậu bằng Thành chung rồi ra Hà Nội học
trường Bưởi.
Năm 1926, do tham gia cuộc bãi khoá để
tang Phan Chu Trinh cho nên ông đã bị đuổi học và bị cấm thi tú tài bản xứ.
Nhưng ông cùng một số bạn bãi khoá quyết chí tự học, đỗ đầu tú tài Tây ở Hà Nội
và đoạt học bổng sang Pháp học Trường Đại học Toulouse (Pháp) và đã đỗ cử nhân.
Năm 1932, ông về nước, không nhận làm
quan ở Huế mà ra Hà Nội dạy học.
Từ năm 1937 ông chuyển sang ngành khí
tượng thủy văn. Năm 1941 ông phụ trách Đài khí tượng Phù Liễn Đông Dương tại tỉnh
Kiến An hiện đại nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ. Trong thời gian này ông cùng hợp
tác với Hoàng Xuân Hãn nghiên cứu về lịch và lịch Việt Nam, và cùng các ông
Hoàng Xuân Hãn, Đặng Phúc Thông, Nguyễn Duy Thanh, Nguyễn Đình Thuỵ, Nguỵ Như
Kon Tum ra báo Khoa học phát hành cả Đông Dương, với mục đích truyền bá ý tưởng
và phương pháp khoa học, xây dựng văn hoá mới cho quốc dân về phương diện khoa
học.
Hoạt động chính trị
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông
được cử giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chính Bắc bộ kiêm Giám đốc Nha khí tượng.
Năm 1946, ông được bầu làm Phó Tổng
thư ký Đảng Xã hội Việt Nam.
Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam
liên tục từ khoá I đến khoá VIII; Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội các
khoá II, III, IV,V,VI; Phó Chủ tịch Quốc hội khoá VII.
Từ sau ngày Toàn quốc kháng chiến
(ngày 19 tháng 12 năm 1946), ông làm công tác khoa học giáo dục và trở thành một
trong những người đầu tiên xây dựng ngành đại học Việt Nam.
Từ năm 1955 đến 1959, ông làm Bộ trưởng
Cứu tế xã hội.
Từ năm 1960 đến 1976, ông làm Giám đốc
Nha Khí tượng Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban địa cầu quốc tế Việt Nam, Phó Chủ nhiệm
Ủy ban khoa học kỹ thuật nhà nước.
Năm 1956, ông làm Tổng thư ký Đảng Xã
hội Việt Nam và giữ chức này cho đến khi đảng này giải thể năm 1988. Được mời,
nhưng ông đã từ chối làm đơn xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam (nhắc đến
trong cuốn Giáo sư Nguyễn Xiển: Cuộc đời và Sự nghiệp, 2007).
Ông còn là Ủy viên Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa I, khóa II. Ông mất ngày 9 tháng 11 năm 1997, hưởng
thọ 90 tuổi.
Gia đình
Nguyễn Xiển sinh ra trong một gia
đình nghèo có 4 anh chị em ruột, 2 gái, 2 trai. Cụ Nguyễn Thị Lạc là chị cả, đã
góp sức nuôi Nguyễn Xiển ăn học cho đến khi về nước. Anh trai của Nguyễn Xiển
là Cụ Nguyễn Bành, liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp.
Phu nhân của Nguyễn Xiển là Cụ Nguyễn
Thúy An (1907 - 1998), người Hà Nội, nổi tiếng về "Nữ công gia
chánh"; mất sau ông đúng 100 ngày.
Con trai cả của Nguyễn Xiển là Nguyễn
Toán - Giáo sư.
Con rể của Nguyễn Xiển là Nguyễn Hy
Hiền (tức Lê Tâm), Giáo sư, Nguyên Ủy viên Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước;
và Đỗ Quốc Sam (1929-2010), Giáo sư, Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Con dâu Nguyễn Xiển là Bà Đặng Kim
Chi, Giáo sư, Tiến sĩ; nguyên phó viện trưởng viện KH&CN Môi trường, Trường
Đại học Bách khoa Hà Nội. Bà là con của Giáo sư Đặng Vũ Hỷ và là cháu ngoại của
Thượng thư Phạm Quỳnh.
Giải thưởng và tôn vinh
Huân chương Sao Vàng
Huân chương Hồ Chí Minh
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 năm 1996 về các công trình khoa học: Đặc điểm
khí hậu miền Bắc Việt Nam và Tập bản đồ khí hậu miền Bắc Việt Nam (1968)
Tên ông đã được đặt cho một con đường thuộc phường Trần Thành Ngọ, quận
Kiến An, thành phố Hải Phòng; và một phần đường vành đai 3 chạy qua phường
Thanh Xuân Trung, Thanh Xuân Nam và Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
Trong quận 9, TP.HCM có một con đường chạy qua từ Long Thuận, Nguyễn Duy Trinh
qua thẳng Đồng Nai.
Nguồn WIKIPEDIA
26 tháng 7 2022
George Clinton – Chính khách người Mỹ
George Clinton – Chính khách người Mỹ
Ông là Thống đốc bang New York từ 1777-1795, và một lần nữa 1801-1804, sau đó giữ
chức Phó Tổng thống Hoa Kỳ thứ 4 giai đoạn 1805-1812, dưới thời Tổng thống
Thomas Jefferson và James Madison. Chỉ có ông và John C. Calhoun là những người
đã từng là phó tổng thống Mỹ dưới hai vị tổng thống khác nhau.
Tiểu sử
Clinton sinh ra ở Little Britain, Tỉnh
New York trong gia đình Charles và Elizabeth Denniston Clinton, người nhập cư
Presbyteria đã rời hạt Longford, Ireland, năm 1729 để thoát khỏi một chế độ Anh
giáo áp đặt các điều kiện bất lợi nghiêm trọng đối với những người bất đồng tôn
giáo. Ông đã lấy cảm hứng các mối quan tâm chính trị từ cha mình, người đã là một
nông dân, người trắc địa, và đầu cơ đất đai, và đã giữ cương vị thành viên của
các hội đồng thuộc địa New York[1]. George Clinton là anh trai của Tướng James
Clinton và chú của thống đốc New York, DeWitt Clinton. George đã được dạy bởi một
giáo sĩ người Scotland địa phương.
Nguồn WIKIPEDIA
25 tháng 7 2022
Nguyễn Tường Tam – Nhà văn với bút danh Nhất Linh, chính khách nổi tiếng Việt Nam trong thế ký 20
Nguyễn Tường Tam – Nhà văn với bút danh Nhất Linh, chính khách nổi tiếng Việt Nam trong thế ký 20
Ông là người thành lập Tự Lực văn đoàn và là cây bút chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ
tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau, ông còn là người sáng lập Đại Việt Dân
chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân
chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ
chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến.
Thân thế
Ông sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng,
tỉnh Hải Dương. Nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam.
Ông nội Nguyễn Tường Tam là Nguyễn Tường
Tiếp, làm tri huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám, rồi về hưu tại đây. Cụ có người
con trai duy nhất là Nguyễn Tường Chiếu (húy Nhu) làm Thông phán, nên được gọi
là Thông Nhu, hay Phán Nhu. Ông Nhu mất năm 1918 khi mới 37 tuổi. Ông lập gia
đình với bà Lê Thị Sâm, và có được 7 người con, trong đó có 6 con trai và 1 con
gái:
Nguyễn Tường Cẩm, kỹ sư canh nông
Nguyễn Tường Tam, tức nhà văn Nhất Linh
Nguyễn Tường Long, tức nhà văn Hoàng Đạo
Nguyễn Thị Thế
Nguyễn Tường Lân, tức nhà văn Thạch Lam
Nguyễn Tường Bách, bác sĩ.
Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở Cẩm
Giàng, một huyện nhỏ. Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó khăn. Từ bé, anh
em Nguyễn Tường Tam đã tiếp xúc với những người nông dân nghèo khổ, điều đó ảnh
hưởng đến văn học của Nhất Linh và Thạch Lam sau này.
Cuộc đời và sự nghiệp
Thời niên thiếu
Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học
tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội. Năm 16 tuổi, Nguyễn
Tường Tam làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài
"Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều" trên Nam Phong tạp chí .
Cuối năm 1923 ông đậu bằng Cao tiểu.
Nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng, nên ông làm thư ký ở sở tài chính
Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Thời gian đó, ông lập
gia đình với bà Phạm Thị Nguyên.
Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang Pháp
du học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất
bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) và trở về nước
trong năm đó.
Hoạt động văn chương
Trở về nước, Nguyễn Tường Tam xin ra
tờ báo trào phúng "Tiếng cười", nhưng lần nào hỏi thăm đều nghe Sở
Báo chí của Phủ Thống sứ bảo rằng "chờ xét". Trong thời gian chờ đợi
giấy phép ra báo, ông xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Ở đó ông quen
biết với thầy giáo dạy Việt văn là Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng).
Năm 1932, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ
tuần báo Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám đốc
kể từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932. Ông chủ trương dùng tiếng cười trào
phúng để đả kích các hủ tục phong kiến, hô hào "Âu hóa", đề cao chủ
nghĩa cá nhân… Trong năm ấy, ông và các cộng sự quyết định thành lập Tự Lực văn
đoàn trên nguyên tắc "dựa vào sức mình, theo tinh thần anh em một nhà. Tổ
chức không quá 10 người để không phải xin phép Nhà nước, chỉ nêu ra trong nội bộ
mục đích tôn chỉ, anh em tự nguyện tự giác noi theo". Về sau, tính chuyện
lâu dài, văn đoàn này mới chính thức tuyên bố thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1934
(báo Phong Hóa số 87).
Hoạt động chính trị
Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập
Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên là Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939 mà ông làm Tổng
Thư ký. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.
Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn
Gia Trí bị thực dân Pháp bắt và đày lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả.
Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày
Nay. Tháng 9 năm ấy, báo Ngày Nay bị đóng cửa sau khi ra số 224.
Năm 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng
Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao. Đại Việt Dân chính Đảng thì đã gần
như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944, ông học Anh Văn và Hán văn.
Tại Quảng Châu và Liễu Châu ông gặp
Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh mới ở tù ra. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn
tháng ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh mới được Trương Phát Khuê thả
ra. Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về
Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ Hồng
Khanh. Tháng 3 năm 1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên dự
khuyết Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, tức Việt
Cách.
Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về
Hà Giang cùng quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai
đoạn này đã được phản ánh trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy. Theo lệnh của
Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn
Gia Trí và Nguyễn Tường Bách, lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và
trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh, Đại
Việt Dân chính đảng sáp nhập với Việt Nam Quốc dân đảng, đồng thời Việt Nam Quốc
dân Đảng liên minh với Đại Việt Quốc dân Đảng. Nguyễn Tường Tam làm Bí thư Trưởng
của Việt Nam Quốc dân Đảng. Cuối năm 1945, Đại Việt Quốc dân Đảng và Việt Nam
Quốc dân Đảng thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng.
Sau khi quân Tưởng vào Việt Nam, đầu
năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, sau khi đàm
phán với chính phủ, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp
Kháng chiến.
Ông cũng tham gia Quốc hội khóa I đặc
cách không qua bầu cử.
Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng
đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị Đà Lạt đàm phán với Pháp, mặc dù trên thực tế
Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn. Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất
đồng Tam đã không tham gia hầu hết các phiên họp còn theo David G. Marr Tam là
người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật
đàm phán trong đoàn. Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị
Fontainebleau nhưng cáo bệnh không đi mà rời bỏ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến,
lưu vong sang Trung Quốc tháng 5 năm 1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951.
Sau đó xảy ra sự kiện vụ án phố Ôn
Như Hầu, lực lượng công an khám xét các của cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng và
Đại Việt Quốc dân Đảng, bắt giữ nhiều đảng viên hai đảng này, và tịch thu được
nhiều vũ khí truyền đơn khẩu hiệu chống chính quyền. Khi Nguyễn Tường Tam rời bỏ
chính phủ, chính phủ đã tuyên bố ông đào nhiệm và biển thủ công quỹ, tiền chi
phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán. Tuy nhiên, theo sử gia David G. Marr, việc
biển thủ công quỹ này khó xảy ra, vì ông khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền
của phái đoàn.
Năm 1947, Nguyễn Tường Tam cùng Trần
Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Đức Trung thành
lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng hộ giải pháp Bảo Đại thành lập
Quốc gia Việt Nam, chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì mặt trận
này giải thể.
Năm 1951, ông từ Hồng Kông về nước, mở
nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực văn đoàn, và tuyên bố không
tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại
Đà Lạt. Tuy nhiên trong Quốc dân Đảng vẫn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam, cạnh
tranh với hai phái khác.
Năm 1958, ông rời Đà Lạt về Sài Gòn,
ông mở giai phẩm Văn hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản.
Năm 1960 ông thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại
tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị
chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng.
"Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và
xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về
tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự
thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi thứ tự do."
Gia đình
Vợ ông là bà Phạm Thị Nguyên
(1909-1981), quê làng Phượng Dực, Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay thuộc ngoại
thành Hà Nội). Tuy là người Tây học, nhưng cuộc hôn nhân này do cha mẹ ông quyết
định. Vợ ông trước năm 1945 là chủ hiệu buôn cau khô có tiếng ở Hà Nội mang tên
Cẩm Lợi ở số 15 phố Hàng Bè. Bà mất tại Pháp ngày 6 tháng 5 năm 1981.
Ông và bà Phạm Thị Nguyên có bảy người
con, gồm năm con trai (Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch,
Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Tường Thái) và hai con gái (Nguyễn Kim Thư, Nguyễn
Kim Thoa).
Nơi an nghỉ
Đêm 7 tháng 7 năm 1963, Nhất Linh đã
quyên sinh bằng rượu pha thuốc độc. Theo lệnh của nhà cầm quyền lúc bấy giờ,
gia đình phải chôn ông gấp tại nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp, không cho đợi
người con cả của ông ở Pháp về dự lễ tang.
Năm 1975, Nguyễn Tường Thạch (con
trai Nhất Linh) đã hỏa thiêu di cốt của cha, rồi gửi bình tro tại chùa Kim
Cương, đường Trần Quang Diệu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1981, vợ ông
sang Pháp đoàn tụ với các con, rồi qua đời và an táng tại đó. Năm 2001, các con
của ông quyết định đưa di cốt của cha mẹ và của chị gái lớn là Nguyễn Kim Thư về
trong khu mộ của dòng họ Nguyễn Tường tại Hội An (Quảng Nam).
Tác phẩm
Tiểu thuyết
Gánh hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934), 13 chương
Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934), 3 chương
Nắng thu (1934)
Đoạn tuyệt (1934-1935), 28 chương
Lạnh lùng (1935-1936), 7 chương
Đôi bạn (1936-1937), 19 chương
Bướm trắng (1938-1939), 9 chương
Con đường sáng (cùng Hoàng Đạo, 1940), 19 chương
Xóm cầu mới (1949-1957), trường thiên, viết dở dang, 24 chương
Giòng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên, tác phẩm cuối cùng, gồm
ba tập:
Ba người bộ hành (1960), 13 chương
Chi bộ hai người (1960), 13 chương
Vọng quốc (1961), 12 chương
Tập truyện
Nho phong (1924)
Người quay tơ (1926), 11 truyện
Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932 - 1933), 13 truyện
Đi Tây (1935)
Tối tăm (1936)
Hai buổi chiều vàng (1934-1937), 6 truyện
Thế rồi một buổi chiều (1934-1937)
Thương chồng (1961), 6 truyện
Những ngày diễm áo (1973)
Tiểu luận
Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961), 5 bài
Dịch phẩm
Đỉnh gió hú của Emily Bronte (đăng
báo 1960, xuất bản 1974)
Di cảo
Đời làm báo
Hội họa
Mặc dầu thời gian theo học Trường Mỹ thuật không lâu, Nhất Linh cũng đã để
lại một số tranh vẽ trong đó có bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố
Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010
được hãng Sotheby's bán đấu giá ở Hương Cảng với giá 596.000 Đô la Hồng Kông,
tương đương với 75.000 Mỹ kim.
Nguồn WIKIPEDIA
"SELF-ENQUIRY, "WHO AM I?""
ĐỌC NHIỀU
-
Isaac Newton là một nhà vật lý, nhà thiên văn học, nhà triết học, nhà toán học, nhàthần học và nhà giả kim người Anh, đ...
-
VŨ GIA HIỀN Ông tiến sĩ kiêm nhiều “vai diễn” Hiếm ai như ông, cùng một lúc say mê rất nhiều lĩnh vực từ khoa học, một nhà nghiên cứu vật...
-
Oliver Cromwell (25 tháng 4 năm 1599 - 3 tháng 9 năm 1658) là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò ...
-
Franz Kafka (3 tháng 7 năm 1883 - 3 tháng 6 năm 1924) là một nhà văn lớn viết truyện ngắn và tiểu thuyết bằng tiếng Đức, đ...
-
Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899 - 2 tháng 7, 1961; phát âm: Ơr-nist Mil-lơr Hêm-ing-wê ) là một tiểu thuyết gia ngườ...
-
Samuel Langhorne Clemens (được biết đến với bút hiệu Mark Twain ; 30 tháng 11, 1835 – 21 tháng 4, 1910) là một nhà văn khôi ...
-
Sơ lược vài dòng về 2 tác giả: Thiết Dương, tên thật là Dương Văn Thiết, tác giả sinh vào những năm đầu của thập niên 70, tại Vĩn...
-
Donald Trump - Doanh nhân, tỷ phú, chính trị gia người Mỹ, tổng thống thứ 45 (và 47) của Hoa Kỳ Donald John Trump ( phát âm tiếng Anh: /ˈ...
-
SOCRATES – NHÀ THÔNG THÁI VĨ ĐẠI Socrates ( 470 – 399 TCN ) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại (Người Athens), ông được coi là một trong ...
-
Ông là chuyên gia tư vấn thương hiệu, đồng thời là bậc thầy thiết kế chương trình và đào tạo chuyên nghiệp các kỹ năng mềm trong kinh ...
DANH MỤC
Danh nhân Văn hóa - Hoàng Gia