Võ Chí Công – Chính khách Việt Nam – Cựu Chủ tịch nước Thứ 3 của Việt Nam
Võ Chí Công (7 tháng 8 năm 1912 – 8 tháng 9 năm 2011)
tên khai sinh là Võ Toàn, bí danh Năm Công, là một cựu chính khách của Việt
Nam. Ông là Chủ tịch nước thứ 3 của Việt Nam (có lúc gọi là Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Việt Nam) từ năm 1987 đến năm 1992.
Trước đó ông từng là Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp (1977–1979), Bộ trưởng Bộ Hải sản (1976–1977). Trong thời kỳ Chiến
tranh Việt Nam, ông là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1961–1975), Phó Chủ
tịch Thường trực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1962–1976), Chủ
tịch Đảng Nhân dân Cách mạng Việt Nam (1962–1975).
Thân thế
Ông tên thật là Võ Toàn, sinh ngày 7
tháng 8 năm 1912, tại làng Tam Mỹ, tổng Phú Quý, phủ Tam Kỳ, nay là thôn Khương
Mỹ, xã Tam Xuân I, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là cụ Võ Nghiệm, một
nhà nho yêu nước, về sau cũng là một đảng viên Cộng sản trong chi bộ do con
trai mình làm bí thư, được nhà nước Việt Nam truy tặng là Liệt sĩ. Mẹ ông là
Nguyễn Thị Thân, về sau được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt
Nam anh hùng.
Do sinh trưởng trong một gia đình nhà
nho, từ nhỏ, ông được giáo dục về tinh thần dân tộc yêu nước và chịu ảnh hưởng
của nhiều chí sĩ đất Quảng như Hoàng Diệu,
Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... và các phong trào đấu tranh chống
thuế, đòi dân sinh, dân chủ của dân chúng vùng Nam Trung Kỳ.
Bắt đầu hoạt động cách mạng
Từ năm 1930 đến 1934, ông tham gia hoạt
động trong các phong trào thanh niên do những người Cộng sản tổ chức. Năm 1935,
ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và năm 1936, ông được cử làm Bí thư chi bộ
ghép một số xã thuộc Huyện Tam Kỳ, trong đó có nhiều người thân trong gia tộc
ông, kể cả cha ông là cụ Võ Nghiệm.
Bấy giờ, do tác động của chính phủ Mặt
trận Bình dân (Pháp), nhiều đảng viên Cộng sản hoạt động công khai. Tuy nhiên,
sau khi chính phủ Mặt trận Bình dân đổ, chính quyền thực dân Pháp đàn áp mạnh mẽ
các phong trào dân chủ ở thuộc địa. Nhiều lãnh đạo Cộng sản bị bắt và cơ sở tan
vỡ. Bản thân ông cũng bị truy lùng, phải giả làm người bán thuốc lá dạo vừa để
lẩn trốn, vừa giữ gìn và xây dựng lại cơ sở. Đầu năm 1939, ông được cử làm Bí
thư Huyện ủy Tam Kỳ.
Lãnh đạo phong trào ở Trung Kỳ
Tháng 8 năm 1939, Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Nam là Nguyễn Đức Thiệu bị bắt cùng với nhiều cán bộ Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Quảng Nam
gần như ngưng hoạt động. Tháng 3 năm 1940, một Tỉnh ủy lâm thời Quảng Nam được
thành lập và ông được bầu làm Bí thư. Tháng 10 năm 1940, ông Hồ Tỵ thay ông giữ
chức Bí thư.
Tháng 10 năm 1941, ông được cử vào Xứ
ủy Trung Kỳ vừa được tái lập, được phân công phụ trách các tỉnh từ Đà Nẵng đến
Phú Yên. Đầu năm 1942, chính quyền thực dân Pháp khủng bố phong trào cách mạng
các tỉnh miền Trung, nhiều cán bộ Xứ uỷ Trung kỳ và các tỉnh bị bắt, một số tạm
chuyển vùng hoạt động để bắt liên lạc với cấp trên. Bản thân ông phải lánh vào
các tỉnh cực nam Trung Bộ, sau đó tiếp tục lên Đà Lạt xây dựng cơ sở.
Tháng 6 năm 1942, Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Nam là Trương Hoàn bị bắt, bị chính quyền thực dân kết án 20 năm tù giam, đày
lên Buôn Ma Thuột. Ông được điều về giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam lần thứ
2. Tháng 8 năm 1942, Liên Tỉnh Thành ủy Quảng Nam – Hội An – Đà Nẵng được thành
lập và sau Hội nghị 16 tháng 1 năm 1943 thì 3 đảng bộ hợp nhất thành Đảng bộ Quảng
Nam. Ông được bầu làm Bí thư của Đảng bộ Quảng Nam mới.
Tháng 10 năm 1943, do sự phản bội của
một tỉnh ủy viên tên Cao Tiến Khai, ông và một số cán bộ tỉnh ủy là Nguyễn Sắc
Kim và Lê Bá bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Ông bị kết án tù chung
thân, sau đó giảm xuống 25 năm tù giam ở nhà lao Hội An, sau đó chuyển sang đi
đày ở Buôn Ma Thuột, bị giam cấm cố (khám số 2) không cho giao tiếp với ai.
Công tác ở Khu ủy Khu V
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo
chính Pháp tại Đông Dương. Để mị dân, lôi kéo người Việt Nam ủng hộ sự cai trị
của Nhật, quân đội Nhật đã cho thả nhiều tù chính trị, trong đó có cả Võ Toàn.
Sau khi được trả tự do, ông về Quảng Nam, được phân công vào Ban Cứu quốc của Tỉnh
bộ Việt Minh Quảng Nam, làm Trưởng ban khởi nghĩa, chuẩn bị cướp chính quyền.
Do nỗ lực của ông và các đồng chí,
cũng như chủ động nhanh nhạy, khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Nam, khởi đầu
từ Hội An, diễn ra ngày 17 tháng 8 năm 1945. Quảng Nam trở thành một trong 4 tỉnh
giành được chính quyền sớm nhất cả nước.
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công,
ông được cử làm Trưởng ty Tư pháp tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Khi Pháp tái chiếm
Đông Dương, ông được cử làm Chính trị viên Trung đoàn 93. Đầu năm 1946, ông làm
Phó ban Tổ chức cán bộ và Thanh tra Quân khu V.
Năm 1951, ông làm Bí thư Ban cán sự Đông
– Bắc Miên, Khu ủy viên Liên khu V. Tháng 3 năm 1952, ông được cử làm Bí thư Tỉnh
ủy Quảng Nam – Đà Nẵng lần thứ 3. Ông giữ chức vụ này đến hết năm 1953. Đầu năm
1954, ông dẫn một đoàn cán bộ lãnh đạo Liên khu 5 ra Bắc học tập kinh nghiệm về
cải cách ruộng đất, sau đó được phân công làm Đoàn ủy viên cải cách ruộng đất ở
Việt Bắc. Ông được cho là một trong những người đã phát hiện và báo cáo với
Trung ương về những sai lầm gây mất đoàn kết ở nông thôn, đồng thời chủ trương
không thực hiện cải cách ruộng đất mà chỉ thực hiện giảm tô, hiến ruộng đất. Do
động thái này mà Cải cách ruộng đất tạm thời chưa thực hiện triệt để.
Sau Hiệp định Genève, 1954, ông được
phân công trở lại Khu V, hoạt động bí mật thay vì tập kết ra Bắc, giữ chức Phó
Bí thư Khu ủy. Năm 1960, ông ra Bắc và là một trong những người ủng hộ chủ
trương chuyển hướng đấu tranh và tham gia xây dựng Nghị quyết 15. Tháng 9 năm
1960, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bí thư Khu ủy Khu V.
Ngày 23 tháng 1 năm 1961, Trung ương
Cục miền Nam đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng thành lập. Với bí danh Võ
Chí Công, hoặc Năm Công, ông được phân công làm Phó bí thư Trung ương Cục. Sau
khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, năm 1962, ông
được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương, đại diện của đảng tại Mặt trận.
Năm 1964, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam, phụ trách
Bí thư Khu ủy Khu V, Chính ủy Quân khu V. Năm 1975, ông được cử làm Phó ban Đại
diện Trung ương Đảng và Chính phủ ở miền Nam.
Hoạt động trong chính phủ thống nhất
Từ ngày Việt Nam thống nhất, ông
trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI, được cử giữ chức Phó Thủ tướng Việt
Nam kiêm Bộ trưởng Bộ Hải sản mới được thành lập, sau khi sáp nhập 2 Tổng cục
Thủy sản miền bắc và miền nam. Nhưng ông chỉ làm Bộ trưởng Bộ Hải sản trong
vòng 5 tháng, thay thế ông là Nguyễn Văn Lâm.
Đến tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam IV ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban
Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Trưởng ban Cải tạo nông nghiệp miền Nam.
Từ tháng 4 năm 1981, trúng cử Đại biểu
Quốc hội Việt Nam khóa VII, được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại
hội Đảng Cộng sản Việt Nam V (3/1982) được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, được Ban Chấp hành bầu vào Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, được
phân công làm Thường trực Ban Bí thư.
Từ tháng 6 năm 1986, ông được phân
công giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI (12/1986), được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được Ban Chấp
hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Từ tháng 6 năm 1987 đến tháng 9 năm
1992: Trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá VIII và được Quốc hội bầu làm Chủ
tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam.
Từ tháng 6 năm 1991 đến tháng 12 năm
1997: là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Qua đời và lễ tang
Vào lúc 7h17 ngày 8 tháng 9 năm 2011,
Võ Chí Công được xác nhận là đã qua đời khi đang điều trị tại Bệnh viện Thống
Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ sau khi lễ mừng thọ 100 tuổi mới khép lại được
1 tháng. Ông cũng ghi kỷ lục nguyên chủ tịch nước có thời gian sống lâu nhất từ
đó tới nay.
Ngày 8/9/2011, Đài truyền hình Việt
Nam đã đưa ra thông cáo về cái chết của ông, qua đó quyết định tổ chức tang lễ
dành cho ông theo nghi thức Quốc tang trong 3 ngày (10, 11 và 12 tháng 9 năm
2011). Lễ viếng và lễ truy điệu được tổ chức đồng thời tại ba nơi, là Thủ đô Hà
Nội, Hội trường Thống Nhất (nơi đặt linh cữu của ông) và trụ sở Tỉnh ủy Quảng
Nam (quê hương ông). Lễ truy điệu tổ chức vào ngày 12 tháng 9 năm 2011, sau đó
đến 7h15 cùng ngày, linh cữu của ông được đi an táng tại nghĩa trang Thành phố
Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
·
"Trên những chặng đường cách mạng"
(Hồi ký), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
Vinh danh
·
Với những đóng góp của mình, ông đã
được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Sao vàng năm 1992. Năm 2010, ông
được nhà nước Việt Nam trao tặng Huy Hiệu 70 năm tuổi Đảng. Ngày 6 tháng 8 năm
2011, Đảng, nhà nước Việt Nam đã tổ chức lễ mừng thọ 100 tuổi dành cho ông. Một
Nhà lưu niệm ông cũng đã được xây dựng tại thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân 1, huyện
Núi Thành. Một tập sách mang tên "Võ
Chí Công người con ưu tú của quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng" cũng được
xuất bản.
·
Tên ông đặt cho đường phố ở Đà Nẵng
(nối Nguyễn Hữu Thọ với Trần Đại Nghĩa), Hà Nội (nối từ cầu Nhật
Tân đến đầu đường Hoàng Quốc Việt,
đoạn vành đai 2), ở TP.HCM tên ông đặt cho đường vành đai 2 đoạn từ Khu Công
nghệ cao quận 9 đến cầu Phú Mỹ. Tại Đà Nẵng và tại quê hương ông có một trường
trung học phổ thông mang tên THPT Võ Chí Công nhưng ở huyện Tây Giang, trường
còn lại ở quận Ngũ Hành Sơn.
Nguồn WIKIPEDIA
0 comments:
Đăng nhận xét