Tôn Đức Thắng – Chính khách nổi tiếng người Việt Nam – Chủ tịch nước đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Tôn Đức Thắng
(20 tháng 8 năm 1888 - 30 tháng 3 năm 1980) là một nhà cách mạng, chính khách của
Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam (từ ngày 22 tháng 9 năm
1969 đến khi qua đời); trước đó là Phó Chủ tịch nước (1960-1969) và Quyền Chủ tịch
nước (từ 2 tháng 9 cho đến 22 tháng 9 năm 1969), Trưởng ban Thường trực Quốc hội
(1955-1960) - tương đương với Chủ tịch Quốc hội bây giờ.
Sau khi kế nhiệm Hồ Chí Minh, ông trở
thành Chủ tịch nước thứ 2 và cũng là Chủ tịch nước cuối cùng của chính thể Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Chủ tịch nước đầu tiên của chính thể sau đó
- Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thân thế
Tôn Đức Thắng còn có bí danh Thoại
Tôn, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888 tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hoà Hưng, tổng Định
Thành, hạt Long Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang). Nơi thường trú tại quận Nam Từ Liêm, thủ đô Hà Nội. Là con đầu của ông
Tôn Văn Đề, và bà Nguyễn Thị Dị. Gia đình đông con, theo thông lệ miền Nam, ông
còn được gọi là Hai Thắng.
Gia đình ông thuộc hạng nông dân khá
giả nên từ nhỏ ông đã được học hành đàng hoàng. Năm 1906, sau khi tốt nghiệp Sơ
cấp tiểu học Đông Dương (Certificat d'Etudes Primaires Complémentaires
Indochinoises - CEPCI) tại Long Xuyên, ông rời quê lên Sài Gòn học nghề thợ máy
tại Trường Cơ khí Á Châu (L’école des Mécaniciens Asiatiques), dân gian thường
gọi là Trường Bá Nghệ. Tốt nghiệp hạng ưu, ông được nhận vào làm công nhân ở
Nhà máy Ba Son của Hải quân Pháp tại Sài Gòn.
Hoạt động chính trị
Thời trẻ
Năm 1912, ông tham gia tổ chức công
nhân bãi công đòi quyền lợi, vì vậy bị sa thải. Năm 1913, ông sang Pháp làm
công nhân ở Toulon (Pháp). Năm 1914, ông được tuyển mộ làm lính thợ cho một đơn
vị Hải quân Pháp, tham gia phản chiến chống lại cuộc can thiệp của Đế quốc Pháp
vào nước Nga Xô Viết tại Hắc Hải (ngày 20 tháng 4 năm 1919), treo cờ đỏ trên một
thiết giáp hạm của Pháp tại đây để ủng hộ Cách mạng Nga.
Năm 1920, ông về nước, xây dựng cơ sở
công hội (tiền thân của Công đoàn Việt Nam), vận động công nhân đấu tranh, tiêu
biểu là cuộc bãi công của công nhân Ba Son từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1925,
quyết tâm trì hoãn việc sửa chữa chiếc Đô đốc hạm Jules Michelet trong đoàn tàu
chiến Pháp đang trên đường sang Trung Quốc.
Năm 1927, ông tham gia Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, là Ủy viên Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ,
và được phân công trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ông bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn (1928), cảnh sát thực dân Pháp gán cho ông
vào tội chủ mưu giết người trong vụ ám sát một người hợp tác với chính quyền
thuộc địa Nam Kỳ tên là Phát do các đồng chí của ông thực hiện, đường Barbier
(nay là đường Thạch Thị Thanh). Nhờ có một đồng chí trẻ tự nhận là chủ mưu,
cùng với sự vận động của một số nhân sĩ trí thức người Việt như bà Trần Thị Cừu,
Đốc học Nguyễn Văn Bá, luật sư Trịnh
Đình Thảo, nên ông chỉ bị chính quyền thuộc địa tuyên án chung thân khổ
sai, đày ra Côn Đảo. Có tổng cộng hơn 60 người bị bắt trong vụ án này, theo hồi
ký Passion, Betrayal, and Revolution in Colonial Saigon: The Memoirs of Bao
Luong, của bà Nguyễn Trung Nguyệt (Bảo Lương).
Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản
Việt Nam tại Côn Đảo.
Theo ông Christoph Giebel, giáo sư
khoa Sử tại Đại học Washington, Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách nghiên cứu về
ông Tôn Đức Thắng ("Tiền bối tưởng tượng của những nhà Cộng sản Việt Nam:
Tôn Đức Thắng và chính trị của lịch sử và ký ức" - Imagined Ancestries of
Vietnamese Communism: Ton Duc Thang and the Politics of History and Memory) cho
rằng "không có bằng chứng cho thấy ngay từ thời rất trẻ, thậm chí trước cả
thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông Tôn đã hoạt động rất tích cực trong các
hoạt động cách mạng tại Sài Gòn", ông Tôn không bị bắt lính sang Pháp năm 1914
mà được tuyển mộ. Trong sự kiện ở Hắc Hải năm 1919, Giebel "tin rằng ông
Tôn Đức Thắng không có mặt trên bất kì con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh
biến ở Hắc Hải", bộ máy tuyên truyền đã dùng hình ảnh ông Tôn cắm cờ trên
một trong những con tàu ở Hắc Hải để kết nối cách mạng Việt Nam với Cách mạng
tháng Mười Nga. Trong cuộc đình công ở Ba Son năm 1925, theo Giebel không phải
là một cuộc đình công chính trị với mục đích chống đế quốc, và cũng không
"giam chân" được chiến hạm Pháp trên đường đến Trung Quốc.
Sau Cách mạng tháng 8
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông trở
về Nam Bộ tham gia kháng chiến, giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1945). Ông là Phó
ban Thường trực Quốc hội (1946-1955), Quyền Trưởng ban (1948-1955) rồi Trưởng
ban Thường trực Quốc hội (1955-1960), tương đương Chủ tịch Quốc hội sau này.
Ông là Đại biểu Quốc hội liên tục các khóa I-VI.
Về mặt chính quyền, ông là Bộ trưởng
Bộ Nội vụ (tháng 5 năm 1947-tháng 11 năm 1947); Thanh tra đặc biệt toàn quốc
(tháng 8 năm 1947), Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960-1969), Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1969-1976) và sau này là Chủ tịch nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976-1980).
Về mặt Đảng, ông là Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1947, và khóa II đến khóa IV,
nhưng không tham gia bộ chính trị.
Về mặt đoàn thể, ông là Phó hội trưởng
Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (1946-1951), Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Mặt trận
Liên Việt (1951-1955), Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam (1955-1977), Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977-1981).
(Kế nhiệm ông tại Mặt trận là ông Hoàng
Quốc Việt).
Trong các văn kiện của nhà nước Việt
Nam, báo chí của Nhà nước, giai đoạn ông làm Chủ tịch nước, tên ông bao giờ
cũng được đặt lên đầu, trên cả Tổng bí thư Lê Duẩn và các lãnh đạo khác.
Ông qua đời ngày 30 tháng 3 năm 1980
tại nhà riêng Hà Nội.
Gia đình
Ông kết hôn với bà Đoàn Thị Giàu
(sinh năm 1898 tại ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang;
mất ngày 25 tháng 5 năm 1974) vào năm 1921 ở nhà ông bà ngoại của bà Giàu ở xã
Vĩnh Kim, Tiền Giang. Đây là cuộc hôn nhân có ý nghĩa đền ơn trả nghĩa vì ông
đã giúp an táng ông Ba Sứ, anh trai bà Giàu, một người bạn của ông ở Pháp. Bà
Đoàn Thị Giàu là cô giáo trường làng.
Hai người sinh được hai con gái, con
gái đầu là Tôn Thị Hạnh, sinh năm 1924 và con gái thứ hai là Tôn Thị Nghiêm,
sinh năm 1928. Đầu năm 1929, hai ông bà sinh con trai thứ ba tên là Tôn Đức
Liêm, nhưng Liêm đã qua đời lúc 3 tuổi vì bị bệnh nặng.
Bà Tôn Thị Hạnh kết hôn với ông Dương
Văn Phúc, nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, vào năm 1950. Sau ngày
toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Tôn Thị Hạnh và Tôn Thị Nghiêm theo
cha lên chiến khu Việt Bắc. Tôn Thị Hạnh làm văn thư lưu trữ còn Tôn Thị Nghiêm
làm điện báo viên ở Văn phòng Trung ương.
Bà Tôn Thị Nghiêm kết hôn với ông Tưởng
Bích Trúc, Phó Tiến sĩ, Chủ nhiệm khoa Đại học Y Hà Nội. Vợ chồng bà Tôn Thị
Nghiêm đã mất vào thập niên 1980, ít năm sau khi Tôn Đức Thắng qua đời. Hai người
có ba con gái (Tưởng Bích Vân, Tưởng Bích Hà và Tưởng Hoài Nam).
Năm 1946, Tôn Đức Thắng nhận nuôi hai
người con gái nuôi là Tôn Thị Ngọc Quang, sinh năm 1927 (không phải họ Tôn, sau
1954 đổi sang họ Tôn) và Tôn Thị Tuyết Dung, sinh năm 1933. Bà Tôn Thị Ngọc
Quang làm y tá ở một Viện quân y ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, và kết hôn
với Nguyễn Thanh Phúc, quê Quảng Trị, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào.
Hai người có một con gái (Nguyễn Thanh Thanh) và hai con trai (Nguyễn Thanh
Bình và Nguyễn Thanh Phong).
Di sản
Tưởng niệm, giải thưởng
Ông được tặng thưởng Huân chương Sao
Vàng năm 1958, nhân dịp ông 70 tuổi và là người đầu tiên được tặng Huân chương
này.
Ông được Hồ Chí Minh ca ngợi là "gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời
cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân." Trong dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của ông, đoàn Chủ tịch Quốc hội
Mông Cổ đã trao tặng Chủ tịch Tôn Đức Thắng Huân chương Xukhe Bato - huân
chương cao quý nhất của Mông Cổ.
Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng tại
Long Xuyên
Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên
nhận được giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lenin do Chính phủ Liên bang Xô viết
trao tặng.
Tên ông được đặt cho một đường phố ở
thành phố Odessa, Ukraina vì liên quan đến sự kiện phản chiến ở Hắc Hải, và cũng
là tên của một trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều con đường ở Việt
Nam cũng được đặt tên theo tên ông.
Tên gọi Tôn Đức Thắng cũng được đặt
cho một giải thưởng cấp thành phố của Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh những
công nhân, kỹ sư có thành tích đặc biệt trong lao động và sản xuất.
Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (20/8/1888 - 20/8/1988), Nhà nước Việt Nam đã cho thành lập một bảo tàng với tên gọi ban đầu là "Nhà trưng bày cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng" tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó được đổi tên thành Bảo tàng Tôn Đức Thắng, bảo tàng này trước đây là tư dinh của Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Hiện nay, Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức
Thắng ở An Giang cũng đã được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích
quốc gia đặc biệt.
Phim Tổ quốc tiếng gà trưa- biên kịch
Nguyễn Quang Sáng, đạo diễn Nguyễn Huy Thành.
Đường Tôn Đức Thắng tại Việt Nam
Tên ông đặt cho đường phố ở Hà Nội (nối
Chu Văn An với Nguyễn Lương Bằng), Thành phố Hồ Chí Minh (nối Đinh Tiên Hoàng đến
đoạn cắt Võ Văn Kiệt - Hàm Nghi), Hải Phòng (từ ngã tư Tô Hiệu và Trần Nguyên
Hãn đến đường Hùng Vương), Đà Nẵng (nối Nguyễn Lương Bằng với Điện Biên Phủ), Đồng
Hới (từ ngã tư Trần Hưng Đạo, Xuân Diệu và Hoàng Diệu đến đường Hà Huy Tập),
Thành Phố Pleiku (Nối Ngô Quyền Và Phạm Hùng Với Lê Đại Hành Và QL14).
Bảo tàng
Bảo tàng Tôn Đức Thắng đặt tại Quận
1, thành phố Hồ Chí Minh, là nơi lưu giữ nhiều hình ảnh, tư liệu về Tôn Đức Thắng,
phục vụ nhu cầu thăm viếng và tưởng nhớ của người dân các tỉnh, thành phía Nam.
Một số tỉnh, thành gần đây cũng có xây dựng các phòng trưng bày về Tôn Đức Thắng,
nhưng ở quy mô nhỏ hơn.
Sưu tầm THẾ GIỚI DANH NHÂN
0 comments:
Đăng nhận xét