Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư thứ tư của Đảng Cộng sản Đông Dương
Nguyễn Văn Cừ
(9 tháng 7 năm 1912 - 28 tháng 8 năm 1941) là Tổng Bí thư thứ tư của Đảng Cộng
sản Đông Dương từ năm 1938 đến năm 1940.
Tiểu sử
Nguyễn Văn Cừ sinh trong một gia đình
Nho giáo, quê ở xã Phù Khê, tổng Nghĩa Lập, huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh (nay là phường Phù Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Cụ tổ 17 đời của
ông là Nguyễn Trãi.
Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Tháng 6 năm 1929, Nguyễn Văn Cừ được
kết nạp vào chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng đầu tiên ở Hà Nội. Năm 1930, được cử
làm Bí thư đặc khu Hồng Gai – Uông Bí. Sau bị Pháp bắt, kết án khổ sai, đày đi
Côn Đảo.
Năm 1936, ông được trả tự do, về hoạt
động bí mật ở Hà Nội. Nguyên Văn Cừ đã tập trung vào công tác khôi phục cơ sở Đảng
khôi phục và đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân và đã thành công trong
việc lập lại Xứ ủy Bắc kỳ và trở thành ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ (tháng 3
năm 1937). Tháng 9 năm 1937, Nguyễn Văn Cừ được cử vào Ban Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương ở hội nghị Hóc Môn (Gia Định). Năm 1938, ông được bầu
làm Tổng Bí thư khi mới 26 tuổi.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Cừ đã cùng Trung ương Đảng xây dựng Nghị quyết
"kiểm điểm các công tác, vạch ra nhiệm vụ của Đảng trong thời kỳ mới, xác
định vấn đề lập Mặt trận dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng
trong giai đoạn hiện tại". Ngay sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, ông
đã xúc tiến ngay việc thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông,
Nghị quyết Hội nghị của Ban Chấp hành trung ương (tháng 11 năm 1939) đã quyết định
những vấn đề quan trọng trong chuyển hướng chiến lược cách mạng. Đảng chủ
trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng
đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, chống nặng
lãi và tạm gác khẩu hiệu lập chính quyền xô viết công nông binh, thay bằng
thành lập chính quyền cộng hòa dân chủ, thành lập Mặt trận Nhân dân Phản đế
Đông Dương.
Ngày 17 tháng 1 năm 1940, Nguyễn Văn
Cừ và Lê Duẩn, Vũ Đình Hiếu bị bắt ở
Sài Gòn với nhiều tài liệu quan trọng và bị tòa tiểu hình Sài Gòn kết án tù.
Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, ông
bị thực dân Pháp ghép vào tội đã thảo ra "Nghị quyết thành lập Mặt trận thống
nhất dân tộc phản đế Đông Dương", "chủ trương bạo động" và là
"người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" và kết
án tử hình.
Ngày 28 tháng 8 năm 1941, Nguyễn Văn
Cừ bị bắn cùng lúc với một số đảng viên cộng sản khác như Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu... tại
trường bắn Hóc Môn.
Tác phẩm
· Các quyền tự do dân chủ với nhân dân Đông Dương, bút danh Trí Thành, Tan
-Van -Hoa Tong-Tho, Sài Gòn, 1938
·
Tự chỉ trích, bút danh Trí Cường, Tập
sách Dân chúng xuất bản, Sài Gòn tháng 7 năm 1939, sau in trong Văn kiện Đảng
toàn tập
·
v.v
Viết về Nguyễn Văn Cừ
Lê Duẩn: "Về tuổi đời anh Cừ kém chúng tôi và
các anh Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập từ 5 đến 10 tuổi nhưng anh là một trí tuệ lỗi
lạc của Đảng, rất sắc sảo và nhạy bén về chính trị lại có khả năng đoàn kết và
thuyết phục anh em".
Võ Nguyên Giáp:
"...Thật tự hào cho Đảng ta đã có một
đồng chí Tổng Bí thư rất trẻ mà đã có tài năng lãnh đạo xuất sắc - đồng chí
Nguyễn Văn Cừ".
Hoàng Quốc Việt:
"Nhớ ngày nào còn về Tam Sơn gặp
Nguyễn Văn Cừ, rồi ngày ở Côn Đảo, mắt le lé nhìn, miệng hơi nhô ra tranh luận,...
một trí tuệ siêu việt của Đảng đã mất rồi".
Vinh danh
Tên của Nguyễn Văn Cừ được đặt cho
các đường phố ở thành phố Hà Nội (đoạn Quốc lộ 5 nối cầu Chương Dương với Ngô
Gia Tự), Thành phố Hồ Chí Minh (từ ngã sáu Cộng Hòa nối với Dương Bá Trạc),
thành phố Đà Nẵng (từ đèo Hải Vân đến cầu Nam Ô), Đồng Hới (từ Cầu Vượt Thuận
Lý tới Lê Lợi), Vũng Tàu (cắt đường Nguyễn An Ninh), Vinh, Cần Thơ, Hạ Long (từ
Kênh Liêm đến Cầu Trắng - Vũ Văn Hiếu), Móng Cái (từ trường THPT Trần Phú đến
phố Lý Công Uẩn), Tuy Hòa (nối đường Hùng Vương với đường Độc Lập), Rạch Giá,
Phú Quốc, Bắc Ninh (khu vực xã Phù Khê), Pleiku (Nối P. Ia Kring,Pleiku Với Xã
Ia Đêr,Huyện Ia Grai),Nhơn Trạch, Đồng Nai (Nối đường Trần Phú với Hùng
Vương)...,
Nguyễn Văn Cừ còn là tên của nhiều
trường trung học, trường đào tạo cán bộ (ví dụ như trường đào tạo cán bộ Nguyễn
Văn Cừ tại Thành phố Hạ Long, Quảng Ninh, vùng đất nơi ông trưởng thành) và một
số phường (ví dụ như phường Nguyễn Văn Cừ ở Quy Nhơn).
Khu di tích lưu niệm Nguyễn Văn Cừ được
xây dựng tại quê hương ông tại thôn Phù Khê Thượng, phường Phù Khê, thành phố Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Tại xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội có một ngôi trường Trung học phổ thông mang tên Nguyễn Văn Cừ, đây
là ngôi trường rộng thứ 3 thành phố Hà Nội và ở giữa khuôn viên trường có một bức
tượng của ông.
Tại phường Mạo Khê, thị xã ĐôngTriều,
tỉnh Quảng Ninh có 1 ngôi trường tiểu học của con em thợ mỏ đã được mang tên
Nguyễn Văn Cừ. Trong khuôn viên nhà trường đã đặt tượng bán thân bằng đồng của
ông. Cùng với đó, 1 tuyến đường đẹp từ chùa Non Đông (Tường Quang tự) xuống đến
Công ty xi măng Hoàng Thạch được mang tên ông
Tại Công viên Mỏ than Mạo Khê có đặt
tượng Nguyễn Văn Cừ.
“Tuổi
trẻ Nguyễn Văn Cừ” là vở chèo của tác giả Đào Thiện đã được dàn dựng và biểu
diễn rất thành công những năm 1970, 1980.
Sưu tầm THẾ GIỚI DANH NHÂN
0 comments:
Đăng nhận xét