Nguyễn Tuân – Nhà văn nổi tiếng Việt Nam
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà văn người Việt
Nam.
Nguyễn Tuân có
sở trường về tùy bút và ký. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và
được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng tiếng Việt. Các tác phẩm của
Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú
trong nhiều lĩnh vực và vốn ngôn ngữ giàu có, điêu luyện. Sách giáo khoa hiện
hành xếp ông vào một trong 9 tác giả
tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
Ngoài ra, ông còn là một diễn viên
tay ngang, tham gia phim "Cánh đồng
ma" năm 1938, và phim "Chị
Dậu" (1980).
Sơ lược tiểu sử
Nguyễn Tuân
sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê ở thôn Thượng Đình,
xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh
Xuân, Hà Nội. Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học
đến cuối bậc Thành chung Nam Định (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện
nay, tiền thân của trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định ngày nay) thì bị
đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt
(1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có
giấy phép. Sau khi ra tù, ông bắt đầu sự
nghiệp viết lách của mình.
Nguyễn Tuân cầm
bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm
tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang
bóng một thời, Một chuyến đi... Năm 1941, ông lại bị bắt giam một lần nữa
và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành
công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một
cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư
ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính sau cách mạng của
Nguyễn Tuân là tập tùy bút Sông Đà
(1960) là kết quả chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, một số tập ký chống Mỹ
(1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và hương vị đất nước. Ông chủ
trương chủ nghĩa xê dịch không thích cuộc sống trầm lặng, bình ổn nên ông đi suốt
chiều dài đất nước để tìm những điều mới mẻ,độc đáo.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào ngày
28 tháng 7 năm 1987.
Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam
truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Tính cách
Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những
giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết Tiếng Việt, những kiệt
tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu
hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất
riêng của Việt Nam.
Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát
triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự
gán cho mình một chứng bệnh gọi là "Chủ
nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế
độ thuộc địa (hai lần bị tù).
Nguyễn Tuân là con người rất mực tài
hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa,
điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Ông còn là một diễn viên kịch nói và là một diễn
viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành
nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật
văn chương.
Nguyễn Tuân nổi tiếng là người sành
ăn. Với ông, ăn là một nghệ thuật, một giá trị thẩm mỹ, một sự khám phá cái
ngon mà tạo hóa đã ban cho.
Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý
trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái
lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ông đã lấy chính cuộc đời
cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.
Quá trình sáng tác và các đề tài chính
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân
không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút
qua nhiều thể loại: thơ, bút ký, truyện ngắn. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới
nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến
đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua...
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng
tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp
"vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết
"chủ nghĩa xê dịch" này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời
cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ
tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà
ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa (Một
chuyến đi).
Không tin tưởng ở hiện tại và tương
lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn "vang bóng một thời".
Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao
hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người
thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu
làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ người tử tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời
sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật
"tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy,
người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một
thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua).
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông
chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân
luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn
phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học
mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca
ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất.
Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ
thuật rất độc đáo và sâu sắc gói gọn trong một chữ "ngông".
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông".
Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết
của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả
dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ
thuật.
Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm
cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Sau
Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai[cần dẫn nguồn].
Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện
đại.
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa
xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những
tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi
cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội......
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu
thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi
sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về
cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ
cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách
Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người
thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy
chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu
chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.
Tác phẩm
Một chuyến đi (1938), tùy bút - du kí
Ngọn đèn dầu lạc (1939), phóng sự
Vang bóng một thời (1940), tập truyện ngắn
Thiếu quê hương (1940), tập tùy bút
Chiếc lư đồng mắt cua (1941), tập tùy bút
Tàn đèn dầu lạc (1941), tập tùy bút
Tùy bút (1941), tập tùy bút
Tóc chị Hoài (1943), tập tùy bút
Tùy bút II (1943), tập tùy bút
Nguyễn (1945), tập truyện ngắn
Chùa Đàn (1946), tiểu thuyết
Đường vui (1949), tập tùy bút
Tình chiến dịch (1950), tập bút kí
Thắng càn (1953), tiểu thuyết
Chú Giao làng Seo (1953), truyện thiếu nhi
Đi thăm Trung Hoa (1955), tập bút kí
Tùy bút kháng chiến (1955), tập tùy bút
Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956), tập tùy bút
Truyện một cái thuyền đất (1958), truyện thiếu nhi
Sông Đà (1960), tập tùy bút
Cô Tô (1965), ký
Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), tập tùy bút
Ký (1976)
Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981)
Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988), tập tùy bút
Yêu ngôn (2000, sau khi mất), tập tiểu luận.
Vinh danh
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Hiện nay, ở Hà Nội có một con đường mang tên ông, nối từ đường Nguyễn
Trãi cắt ngang qua các phố Nguyễn Huy Tưởng, Ngụy Như Kon Tum đến đường Lê Văn
Lương, nối với phố Hoàng Minh Giám.
Nhận định
Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: "Nguyễn Tuân là một
cái định nghĩa về người nghệ sĩ". Đối với ông, văn chương trước hết phải
là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì
phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất, không phải là
người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên
lương" trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước
uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài,
nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải
ai cũng ưa thích. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nhược điểm: mạch văn
quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức
và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề, khó khăn...
Nguồn WIPEDIA
0 comments:
Đăng nhận xét