Nguyễn Du – Tác giả nổi tiếng người Việt, Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới
Nguyễn Du (chữ
Hán: 阮攸; 3 tháng 1 năm 1766 – 1820), tên
tự là Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên
(清軒), biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ (鴻山獵戶), Nam Hải điếu đồ (南海釣屠), là một nhà
thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính
trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân
tộc” và được UNESCO vinh danh là "Danh
nhân văn hóa thế giới".
Tác phẩm Truyện Kiều của ông được xem là một kiệt tác văn học, một trong những
thành tựu tiêu biểu nhất trong nền văn học trung đại Việt Nam.
Tiểu sử
Gia thế
Theo một bản gia phả của dòng họ Nguyễn
ở huyện Nghi Xuân, Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3 tháng
1 năm 1766 theo lịch Gregory; một số tài liệu ghi 1765) tại làng Tiên Điền,
Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), sinh ở
làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Tư, hiệu Nghị Hiên, biệt hiệu
là Hồng Ngự cư sĩ, đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại Tư đồ (Tể tướng),
tước Xuân Quận công. Mẹ là bà Trần Thị Tần (24/8/1740 – 27/8/1778), con gái một
người làm chức Câu kế. Bà Tần quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du
(Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn
Nghiễm (kém chồng 32 tuổi, sinh được 5 con, bốn trai và một gái).
Tổ tiên của Nguyễn Du, quê nội ở làng
Tảo Dương, quê ngoại ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc
Hà Nội), nổi tiếng với câu chuyện Trạng Cậu, Trạng Cháu (Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và Trạng nguyên Nguyễn Thiến). Về sau, Nam Dương công
Nguyễn Doãn Miện (tức Nguyễn Nhiệm, là cháu của Trạng nguyên Nguyễn Thiến) di
cư vào Hà Tĩnh, trở thành vị tổ phụ của dòng họ Nguyễn Tiên Điền.
Thời thơ ấu
Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới
một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng
Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó
sống trong giàu sang phú quý.
Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du
sung chức tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc
đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ
thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát liền kề.
Năm Ất Mùi 1775, anh trai Nguyễn Trụ
(sinh năm 1757) qua đời.
Năm Bính Thân 1776 thân phụ ông mất.
Năm Mậu Tuất 1778, khi 12 tuổi, thân
mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần mất. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn
Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa. Mới 13 tuổi,
Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản (hơn ông 31 tuổi).
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là
anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án
năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này, Nguyễn Du được
một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn
Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ nuôi ăn học.
Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được
làm Thượng thư bộ Lại kiêm Trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên, tước Toản Quận công
và Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
Thời niên thiếu
Năm Quý Mão (1783), Nguyễn Du thi
Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Sinh đồ) lúc 18 tuổi. Ông lấy vợ là con
gái của ông Đoàn Nguyễn Thục. Ông được
tập ấm chức Chánh Thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, chỉ huy đội quân hùng mạnh nhất
Thái Nguyên của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên cùng Nguyễn Đăng Tiến, làm quyền
Trấn thủ Thái Nguyên thay mặt Nguyễn Khản.
Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ hầu, tức
Cai Gia (theo Hoàng Lê nhất thống chí)
một tay "giặc già" Trung Quốc gốc người Việt Đông, Quảng Tây sang đầu
quân làm thuộc hạ, tân khách dưới trướng Nguyễn Khản. Cai Gia là người dạy võ,
18 thứ binh khí, binh thư và kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du. Cai Gia còn lớn
tuổi hơn cả Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là người anh
cả kết nghĩa sống chết, tồn vong cùng có nhau, và gọi tên là Nguyễn Đại Lang
(Thanh Hiên thi tập).
Cũng trong năm này, anh cùng mẹ của
Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ
Giải nguyên khoa thi Hương ở điện Phụng Thiên, và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức
Thiếu bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.
Tháng 2 năm Giáp Thìn (1784), kiêu
binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ
lên làm thái tử. Dinh thự gia đình ở phường Bích Câu, Thăng Long bị kiêu binh
phá sạch, Nguyễn Khản phải trốn lên ở
với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây.
Năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh
rồi chết ở Thăng Long.
Năm 1787, Nguyễn Du bốn năm trấn đóng
Thái Nguyên, sau trận chiến với quân Tây Sơn, đi giang hồ không nhà không cửa
cùng Nguyễn Đại Lang.
Năm 1788, tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Đăng Tiến khởi
nghĩa tại Tư Nông, bị chỉ huy Giáo bắt được cùng Nguyễn Quýnh giải về cho Nhậm.
Nhậm trọng khí khái, tha chết và cho tùy ý muốn đi đâu thì đi. Nguyễn Đại Lang
(Nguyễn Đăng Tiến) cùng Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh sang Vân Nam, Trung Quốc.
Đến nơi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng
xuân, hết bệnh Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục thành nhà sư Chí Hiên đi chu
du Trung Quốc theo gương thi hào Lý Bạch.
Họ chia tay tại Liễu Châu, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở Quế Lâm, hẹn gặp
nhau tại Trung Châu (Hàng Châu).
Nguyễn Du đi chu du muôn dặm tại
Trung Quốc (khoảng 5.000 km trong 3 năm), từ Liễu Châu qua Quảng Tây đi đường
Trường Sa đến Hán Dương, qua sông Giang Hán đi Trường An và sau đó xuống Hàng
Châu, "Giang Nam, Giang Bắc túi tiền
không".
Tại Hàng Châu, Nguyễn Du ngụ tại chùa
Hổ Bào (虎跑寺), nơi nhân vật lịch sử Từ Hải,
tức Minh Sơn Hòa thượng, từng tu hành. Nơi đây Nguyễn Du có được quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và quyết chí diễn ca
thơ Nôm. Nguyễn Du và Cai Gia Nguyễn Đại Lang gặp lại nơi miếu Nhạc Phi, sau đó cùng đi Yên Kinh.
Năm Kỷ Hợi (1789), Nguyễn Huệ đại phá
quân Thanh, Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác
với Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại.
Năm 1790, Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn được cử vào sứ bộ của vua Quang Trung giả, sang Trung Quốc
triều kiến vua Càn Long.
Nguyễn Du trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn
trên đường đi Nhiệt Hà. Gặp nhau nơi lữ quán hai người đã cùng bàn luận về văn
chương chuyện Hồng nhan đa truân. Nguyễn Du về trước và hẹn gặp nhau lại tại
Thăng Long.
Cuối năm 1790, Nguyễn Du trở về Thăng
Long. Ông có mối thân tình quen biết với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh
thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt
và bị giết. Dinh cơ, từ đường họ Nguyễn ở Tiên Điền, Hà Tĩnh bị tướng Tây Sơn
Lê Văn Dụ đốt cháy, phá hủy, làng Tiên Điền bị làm cỏ vì cuộc khởi nghĩa Nguyễn
Quýnh.
Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn Du về thăm
quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở Viện Cơ mật
và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
Năm Giáp Dần (1794), Nguyễn Đề được
thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Nguyễn
Du và Nguyễn Ức được Nguyễn Đề giao
cho việc về Hồng Lĩnh xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền mà ông bận việc
quan không thể trực tiếp trông coi.
Năm 1795, Nguyễn Đề đi sứ sang Yên
Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long
nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được
thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn
Du trốn vào Gia Định theo chúa Nguyễn
Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được
tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn
hứng (Cảm hứng trong tù). Nguyễn Du ra Thăng Long thì Hồ Xuân Hương đã được mẹ gả cho thầy lang xóm Tây làng Nghi Tàm.
Năm 1797, Nguyễn Đề thu xếp cùng Đoàn
Nguyễn Tuấn cưới cô em út Đoàn Nguyễn Thị Huệ cho Nguyễn Du. Đoàn Nguyễn Tuấn
giao cho Nguyễn Du gia trang tại Quỳnh Hải, từ đây chấm dứt cuộc đời mười năm
gió bụi.
Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Đề
trốn tránh tại Phú Xuân được Gia Long gọi ra. Nguyễn Đề dâng sớ, vua Gia Long tha chết, mến tài và kính trọng
dòng dõi con Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm nên cho đi theo ra Bắc Thành làm việc
dưới quyền Tổng trấn Nguyễn Văn Thành.
Nguyễn Nể cố vấn chỉ dẫn các kinh nghiệm nghi lễ đi sứ, tiếp sứ Trung Quốc sang
phong vương cho vua Gia Long như trường hợp Phan Huy Ích. Đoàn Nguyễn Tuấn,
lúc này khoảng 50 tuổi, có lẽ về ẩn cư trong "Phong nguyệt sào".
"Phong nguyệt sào" (tổ gió trăng) là một cái chòi trong vườn hoa nhà
Nguyễn Nể, nơi ông thường ngâm vịnh trong đó với tự hiệu là Sào Ông.
Sự nghiệp
Năm Quý Hợi (1803), khi vua Gia Long
ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân lương đi đón vua Gia Long, đến Phù
Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay tri huyện Phù
Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Sự kiện
này giống như Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương mà được chức
Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử.
Nhờ thời kỳ đi giang hồ, Nguyễn Du đã
thông thạo các ngôn ngữ Trung Quốc, nên chỉ mấy tháng sau thăng tri phủ Thường
Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội), ông được đặc cách lên ải Nam Quan
tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.
Năm Ất Sửu (1805), ông được thăng
Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân.
Năm Đinh Mão (1807), ông được cử làm
giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm Mậu Thìn (1808), ông xin về quê
nghỉ.
Năm Kỷ Tỵ (1809), ông được bổ chức
Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.
Năm Quý Dậu (1813), ông được thăng Cần
chánh điện học sĩ (chính Tam phẩm) và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh.
Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ
bộ hữu Tham tri (tòng Nhị phẩm).
Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du
là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị
đày vào Quảng Nam.
Năm Canh Thìn (1820), vua Gia Long
qua đời, Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi, tức vua Minh Mạng. Lúc này Nguyễn Du được cử
đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch tả
chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức 16 tháng 9 năm 1820) hưởng thọ 54
tuổi.
Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông
được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh.
Tác phẩm
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi
bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững
nhiều thể thơ của Trung Quốc như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật,
ca, hành,... nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là
tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể
thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể
loại truyện thơ.
Chính trên cơ sở này mà trong thơ
Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những
đường nét sắc cạnh của bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu
sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra vừa dạt dào yêu thương,
vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong
nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán cho đến Truyện Kiều đã tạo nên cái sức
sống kỳ lạ ở hầu hết các tác phẩm của ông.
Văn bản
Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành
ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc
và cho in ở phố Hàng Gai (Hà Nội lúc ấy). Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục
năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của
Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu, phổ biến di
sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả
một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm
ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết
Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu
vẫn còn rất khác nhau.
Tác phẩm bằng chữ Hán
Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền thì
Nguyễn Du để lại ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp
ngâm và Bắc hành tạp lục.
Những năm đầu thế kỷ XX, khi biên soạn
cuốn Truyện cụ Nguyễn Du, Lê Thước và Phan Sĩ Bàng đã thu thập được một phần lớn
những bài thơ đó, nhưng chưa công bố, chỉ mới trích dẫn một số bài lẻ tẻ. Khoảng
năm 1940-41, ông Đào Duy Anh lại làm công việc đó một lần nữa. Ông cho biết:
Ba tập thơ chữ Hán chính họ Nguyễn
Tiên Điền cũng không giữ được tập nào. Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn
Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và
Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập Thơ chữ Hán
Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965, Nhà xuất
bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu
tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:
Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh
Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà
Nguyễn. Tập thơ được sáng tác trong ba giai đoạn:
·
Giai đoạn "Mười năm gió bụi",
từ năm 1786, năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà, cho đến năm Nguyễn Du trở
về quê nhà ở Hồng Lĩnh, khoảng cuối những năm 1795 đầu năm 1796.
·
Giai đoạn "Dưới chân núi Hồng",
từ năm 1796 đến năm 1802.
·
Giai đoạn "Ra làm quan ở Bắc
Hà", từ năm 1802 đến cuối năm 1804 (trong giai đoạn này có lần nhà thơ được
cử đi nghênh tiếp sứ thần nhà Thanh sang phong sắc cho Gia Long).
Nam trung tạp ngâm
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt
lúc ở miền Nam) gồm 40 bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi
được thăng hàm Đông các học sĩ vào làm quan ở Kinh (gần 4 năm) cho đến hết thời
kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình (3 năm, 5 tháng). Ông viết khi làm quan ở Huế, Quảng
Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
Bài đầu tập thơ, "Phượng hoàng lộ
thượng tỏa hành", đúng là bài làm trên đường đi vào Kinh nhận chức: Từ tỉnh
lỵ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng và quán Phượng hoàng, và bài "Nễ
giang khẩu hương vọng", gần cuối tập, có câu:
Độc bão hương tâm dĩ tứ niên
(dịch nghĩa: Ôm nỗi nhớ quê đã bốn năm trời).
Bắc hành tạp lục
Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh
trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang
Trung Quốc. Chúng tôi có theo dõi cuộc đi xứ này trên bản đồ theo những tài liệu
mà các phái đoàn của ta gần đây đi tham quan Trung Quốc tìm được và đã đối chiếu
với các bài thơ, thì thấy cách sắp xếp các bài thơ đã ổn. Bài "Thăng
Long" (tháng 2 năm 1813) và bài cuối tập "Chu Phát" làm khi trở
lại Võ Xương (cuối năm 1813). Từ đó, nhà thơ lên thuyền về Nam Quan theo con đường
đã đi lần trước, nên không có thơ nữa. Chỉ có một vài bài còn Cối, Vương thị (vợ
Tần Cối), không ở chỗ thích đáng của nó, làm ta ngờ rằng nhà thơ nhân nhớ đến
những nhân vật đó mà làm thơ, chứ không phải tức cảnh sinh tình như tuyệt đại
đa số các bài trong tập này. Trường hợp này giống trường hợp bài "Độc Tiểu
Thanh ký" (số 78 Thanh hiên thi tập), bài này không phải làm khi nhà thơ
đi qua mộ Tiểu Thanh ở Tây Hồ, mà làm khi còn ở nhà, nên không ở trong Bắc hành
tạp lục.
Với cách sắp xếp đó có thể hiểu được
tâm sự của Nguyễn Du trong từng giai đoạn. Có thể xem ba tập thơ này là ba tập
nhật ký ghi trong một khoảng thời gian dài, từ năm nhà thơ 21 tuổi (1786) cho đến
năm nhà thơ 49 tuổi (1814), trước lúc chết 5 năm. Bài thơ nào cũng chứa đựng một
lời tâm sự. Ngay những bài tức cảnh vịnh sử khi đi sứ Trung Quốc cũng không phải
là những bài tức cảnh, vịnh sử thuần túy mà đều có bao hàm tâm sự của nhà thơ,
bộc lộ thái độ sống của nhà thơ một cách hết sức rõ rệt.
Tập thơ 249 bài thơ chữ Hán của Nguyễn
Du là một công trình tập thể đã được cụ Lê Thước và Trương Chính thu thập tài
liệu, dịch nghĩa, chú thích, sắp xếp.
Tác phẩm bằng chữ Nôm
Về văn thơ Nôm, Nguyễn Du sử dụng tài
tình hai thể thơ dân tộc lục bát và song thất lục bát. Ông đã làm mới ngôn ngữ
văn học Tiếng Việt.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
Nguyễn Du lưu lại trong kho tàng văn
học Việt Nam thiên trường thi bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kiều) được
truyền tụng trong dân gian và được liệt vào tài liệu giáo khoa dạy ở bậc trung
học. Đoạn Trường Tân Thanh là áng văn chương tuyệt tác, viết theo thể thơ lục
bát gồm 3.254 câu, dài nhất trong các tác phẩm xưa nay.
Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột,
tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể
lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc
sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô
gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: "Có
thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có
thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ
ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn".
Ngoài ra, Văn chiêu hồn (tức Văn tế
thập loại chúng sinh) là một ngâm khúc gồm có 184 câu theo thể song thất lục
bát, trong đó chứa đựng tấm lòng từ bi của Phật tử Nguyễn Du đối với cảnh khổ của
muôn vạn sinh linh, cũng là một tác phẩm giá trị được nhiều học giả nghiên cứu,
trích giảng, hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện
hiệu chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên "Đông Dương tuần
báo" năm 1939, thì Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng
khiếp làm hằng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp
các chùa, người ta đều lập đàn giải thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn.
Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện
Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình (1802-1812).
Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát.
Nội dung là thay lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường
vải.
Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày
tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
Thơ Nôm của Nguyễn Du đều thấy chỗ đậm,
chỗ nhạt những yếu tố hoặc biểu hiện của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn
và chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Các tác phẩm thơ Nôm của ông đều thể hiện
tư tưởng, tình cảm sâu sắc, tài năng nghệ thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm
của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể hiện rõ nhất qua áng văn chương bất hủ
là Truyện Kiều.
Trước năm 1930
Trong quãng thời gian hơn một trăm
năm này, người bình luận các tác phẩm của Nguyễn Du là các nhà nho. Ở thế kỷ
XIX, các nhà nho thường qua những bài thơ vịnh, những bài tựa mà bộc lộ cách
nhìn, chính kiến của mình với tác phẩm. Sang thế kỷ XX, các nhà nho lại phát biểu
bằng những bài văn chính luận. Nhưng bình luận ở giai đoạn nào họ cũng đều chia
làm hai dòng khen và chê. Tuy nhiên, dù khen hay chê thì tất cả họ đều đánh giá
cao nghệ thuật văn chương của Nguyễn Du. Nhưng văn chương được nhìn như có sự
tách rời của hình thức với nội dung.
Từ 1930 đến 1945
Nghiên cứu phê bình văn học thời gian
này đã thành một bộ môn riêng biệt, mang ý nghĩa hiện đại. Các tác phẩm của
Nguyễn Du trong giới nghiên cứu, phê bình thấy rõ ba khuynh hướng sau:
·
Khuynh hướng phê bình ấn tượng chủ
quan với các ông Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư
·
Khuynh hướng giáo khoa qua những công
trình của các ông Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm
·
Cách tiếp cận kiểu khoa học của ông
Nguyễn Bách Khoa
Từ 1945 đến 1975
Trong giai đoạn chia đôi đất nước
này, tại miền Bắc, việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du trong quan hệ với
hiện thực đời sống xã hội theo quan điểm mỹ học Marxist. Tác phẩm văn học được
nhìn nhận như là sự phản ánh đời sống xã hội và bộc lộ thái độ của nhà văn đối
với hiện thực đó. Hai công trình theo hướng này xuất hiện sớm và đáng chú ý hơn
cả là cuốn: Quyền sống của con người trong "Truyện Kiều" của Hoài
Thanh (1949) và bài báo Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung
"Truyện Kiều" của Đặng Thai Mai (1955). Vấn đề tinh thần nhân đạo và
tính hiện thực của "Truyện Kiều" được hai tác giả chú ý đặc biệt và
coi là giá trị cơ bản của tác phẩm.
Ở miền Nam, thời kỳ 1954–1975 cũng có
nhiều người để tâm phê bình nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn Du. Dịp kỷ niệm
200 năm ngày sinh Nguyễn Du, trên các tập san Văn (số 43, 44) và Bách khoa thời
đại (số 209) có nhiều bài phê bình được công bố. Trước đó, năm 1960, có cuốn
Chân dung Nguyễn Du tập hợp một loạt bài viết về Nguyễn Du của nhiều tác giả.
Trước sau năm 1970 cũng thấy một số công trình khá công phu của Phạm Thế Ngũ, Đặng
Tiến, Nguyễn Đăng Thục,...
Từ 1980 đến nay
Trong giai đoạn này, các tác phẩm của
Nguyễn Du được tiếp cận bởi nhiều phương pháp mới: phong cách học, thi pháp học,
ký hiệu học... Đã xuất hiện một số công trình đáng chú ý của Phan Ngọc, Trần
Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu,...
Nhìn chung các tác giả đều cố gắng
khách quan hóa việc phân tích tác phẩm, muốn làm cho các kết kuận của mình là
hiển nhiên, "không còn tranh cãi". Tuy vậy mọi việc không đơn giản,
các ý kiến vẫn cứ rất xa nhau, điều đó có nghĩa là những cuộc tranh luận sẽ vẫn
tiếp diễn và như vậy nghiên cứu, phê bình về các tác phẩm của Nguyễn Du sẽ tiếp
tục tiến triển.
Sáng tác của Nguyễn Du không thật đồ
sộ về khối lượng, nhưng có vị trí đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và
văn hóa dân tộc. Hơn nữa nó lại rất năng sản. Từ Truyện Kiều đã nảy sinh biết
bao những hình thức sáng tạo văn học và văn hóa khác nhau: thơ ca về Kiều, các
phóng tác Truyện Kiều bằng văn học, sân khấu, điện ảnh; rồi rất nhiều những dạng
thức của nghệ thuật dân gian: đố Kiều, giảng Kiều, lẩy Kiều, bói Kiều... Đặc biệt
là số lượng rất lớn những bài bình luận, những công trình phê bình, nghiên cứu.
Tưởng niệm
Được biết, Nguyễn Du qua đời vào ngày
18 tháng 9 năm 1820. Từ đó đến nay, tại Việt Nam đang có những con đường, phố
và ngôi trường mang tên ông.
Ngày 17 tháng 11 năm 2015 tại Hà Nội,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã tổ chức họp báo giới thiệu
về các hoạt động kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Nguyễn Du. Lễ kỷ niệm cấp quốc
gia 250 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015) diễn ra ngày 5 tháng 12 năm
2015 tại thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. với chương trình nghệ thuật "Tiếng
thơ ai động đất trời" do Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch chỉ đạo và Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam thực hiện với sự tham
gia của gần 650 nghệ sĩ.
Lễ kỷ niệm có các chuỗi hoạt động
chính: Tổ chức các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế; xuất bản Truyện Kiều,
các tác phẩm của Nguyễn Du ra nhiều thứ tiếng khác nhau; xây dựng phim tư liệu,
các tác phẩm âm nhạc, hội họa… về thời đại, cuộc đời, sự nghiệp, tác phẩm của
Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thi ngâm
Kiều, lẩy Kiều, bình Kiều, diễn trò Kiều, nói chuyện về tác phẩm của Nguyễn Du;
tổ chức các hoạt động hưởng ứng kỷ niệm tại Thủ đô Hà Nội là nơi sinh và tại tỉnh
Bắc Ninh (quê mẹ của ông); tuần Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du, bắt đầu từ ngày 28
tháng 11 đến ngày 5 tháng 12 năm 2015 tại Hà Tĩnh.
Bên cạnh đó, từ ngày 17 đến 25 tháng
11 năm 2015 tại Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra Tuần
triển lãm về Nguyễn Du do Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và
Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam tổ chức. Triển lãm quy tụ tương
đối đầy đủ các ấn bản bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Nôm những sáng tác của
Nguyễn Du cũng như các công trình nghiên cứu, biên khảo, chú thích về Nguyễn Du
của nhiều lớp học giả. Điểm nhấn của triển lãm là những bản Nôm gốc như bản in
Kim Vân Kiều tân tập (năm Bính Ngọ niên hiệu Thành Thái 1906), bản chép tay Kim
Vân Kiều thích chú (Kỷ Mão 1879). Ngoài ra, còn có 20 bức thư pháp của các
thành viên Chi hội Thư pháp (Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Thành
phố Hồ Chí Minh) cũng sẽ được trưng bày với nội dung là những trích đoạn các
sáng tác của Nguyễn Du (Truyện Kiều, Văn tế thập loại chúng sinh…).
Nguồn WIKIPEDIA
0 comments:
Đăng nhận xét